TS. PHẠM THANH HÙNG
(Khoa Sư phạm, Trường Đại học An Giang)
(Ảnh Sơn Nam - Nguồn: Internet)
1.
Sơn Nam (1926 – 2008) là nhà văn chuyên
nghiệp hiện đại nổi tiếng của
vùng đất Nam Bộ và của cả nước ta. Tròn sáu thập niên trong vùng đô thị miền
Nam, bằng bút lực không biết mệt mỏi, ông đã viết và sống trọn vẹn một
cuộc đời giản dị, thanh bần, được đông đảo các tầng lớp quần chúng độc giả yêu
mến gọi là "ông già Nam Bộ", "ông già Ba Tri", “ông già đi bộ”,
"pho từ điển sống về miền Nam" hay "nhà Nam Bộ học".
Là
một thanh niên yêu nước sớm tham gia cách mạng, trong suốt chín năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, Sơn Nam đã lăn lộn khắp rừng U Minh và vùng Tứ giác Long
Xuyên để vừa hoạt động, vừa sáng tác. Năm 22 tuổi, ông trình làng tập thơ đầu tay
Lúa reo (Hội Văn hóa kháng chiến Kiên
Giang, 1948) với những bài thơ thấm đẫm “chất quê” của một vùng đồng bằng phù
sa trù phú. Bốn năm sau, 1952, tập truyện vừa đầu tiên Bên rừng Cù lao Dung đã nhận được giải Nhất Giải thưởng Văn nghệ
Cửu Long do Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam Bộ tổ chức, và kí sự
Tây đầu đỏ được giải Nhì trên báo Tiếng súng kháng địch.
Cũng như nhiều người kháng chiến cũ ở lại
miền Nam bị đàn áp, bắt bớ sau Hiệp định Genève 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm
đã bắt giam Sơn Nam vào cái gọi là Trung tâm Cải huấn. Sau khi trao trả tự do, ông
tham gia viết bài cho các tờ báo tiến bộ phát hành tại Sài Gòn lúc bấy giờ như Nhân Loại, Công Lý, Ánh sáng, Lẽ Sống, Tiếng Chuông,... Nhà văn thường
chọn viết những đề tài dã sử nhằm né tránh sự đàn áp thông qua chính sách kiểm
duyệt gắt gao của chính quyền, đồng thời bóng gió gửi gắm tình cảm yêu nước,
ngợi ca phẩm chất anh hùng, bất khuất của con người miền Nam và của cả dân tộc.
Các khảo cứu về văn hóa lúc này như: Chuyện
xưa tích cũ, Tìm hiểu đất Hậu Giang,
Nguyễn Trung Trực - người anh hùng dân
chài đã nhanh chóng đến với độc giả. Năm 1960 - 1961, ông lại bị bắt giam
vào nhà tù Phú Lợi (Thủ Dầu Một, Bình Dương). Đây cũng là thời gian manh nha
cho sự ra đời tập truyện ngắn nổi tiếng Hương
rừng Cà Mau (1962). Ngoài những tập truyện như Chim quyên xuống đất, Biển cỏ
miền Tây, Hình bóng cũ, Vạch một chân trời, Hai cõi U Minh, Vọc nước giỡn
trăng, Bà Chúa Hòn (tiểu thuyết), Xóm Bàu Láng (truyện dài), Theo chân người tình,… Sơn Nam còn để
lại dấu ấn sâu đậm về mặt nghiên cứu lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội của vùng
đất Nam Bộ qua những tác phẩm như Bến
Nghé xưa, Đất Gia Định xưa, Người Sài Gòn, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Văn
minh miệt vườn, Nghi thức lễ bái của
người Việt xưa, Miền Nam đầu thế kỷ
XX: Thiên Địa hội và cuộc Minh Tân,
Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Người Việt có dân tộc tính không?, Đồng bằng sông Cửu Long - nét sinh hoạt xưa, Đình miếu và lễ hội dân gian, Lăng Ông Bà
Chiểu và lễ hội văn hoá dân gian, Cá
tính miền Nam, Lịch sử đất An Giang,...
Tháng 10 năm 1974, một lần nữa Sơn Nam bị
chính quyền Sài Gòn bắt giam do tham gia vào một cuộc đại biểu tình lấy tên là “Ngày
ký giả ăn mày”. Đây là một sự kiện lớn của báo giới miền Nam nhằm chống lại Sắc
luật 007/72 của chính quyền Sài Gòn thẳng tay đàn áp báo chí, thực hiện chế độ
kiểm duyệt hà khắc đã khiến khoảng 70% người làm báo phải thất nghiệp. Vài
tháng sau, ông cùng với nhiều bạn tù tự phá cửa ngục ra ngoài đón ngày giải
phóng miền Nam.
Hòa bình thống nhất đất nước, ông vẫn tiếp
tục đi và cho ra đời nhiều truyện vừa như: Ngôi
nhà mặt tiền, Âm dương cách trở, Chuyện tình một người thường dân, Truyện ngắn của truyện ngắn; những tập
bút kí về Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng đất Nam Bộ: Giới thiệu Sài Gòn xưa, Ấn tượng 300 năm, Tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long; biên khảo Thuần phong mĩ tục Việt Nam, tạp bút -
tản văn Dạo chơi tuổi già; bốn tập
hồi ký: Từ U Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9, 20 năm giữa lòng đô thị và Bình
an.
Ông qua đời ngày 13 tháng 08 năm 2008, tại
Bệnh viện Nhân dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 82 tuổi.
2. Tiếp cận với các tác phẩm
của Sơn Nam, độc giả như được ông đưa trở ngược về quá khứ để đến thăm từng ấp,
từng làng của Nam Bộ xưa mà những người dân cố cựu như ông gọi là “Miệt Vườn”.
Thật vậy, từ thuở ban đầu thành lập Lục Tỉnh, thành phố Sài Gòn trực thuộc tỉnh
Gia Định. Song, trải qua năm tháng hai tỉnh Biên Hòa và Gia Định tách ra, Lục Tỉnh
từ đó thật sự chỉ còn “Tứ Tỉnh” nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (theo
cách gọi ngày nay), được người dân nơi đây gọi chung là Miền Tây hoặc Miệt Vườn. Chính Sơn Nam đã
viết về Miệt Vườn như sau:
“Trước năm 1945 và có lẽ trước năm 1960, người địa phương không gọi “Đồng
bằng sông Cửu Long” mà gọi là Miệt Vườn, với câu hát khá phổ biến: Mẹ mong gả
thiếp về vườn/Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh… ”1. Ở đó có những cái tên vừa đậm chất
Nam Bộ vừa mang âm hưởng Cao Miên như Cà Bây Ngọp, Chắc Cà Đao, Chắc Băng, Láng
Thé, Lấp Vò, Man Thít, Mo So, Soài Rạp, Tà Lơn, Thốt Nốt,… và hàng loạt những
địa danh như Tắt Ổ Cu, Tắt Ăn Chè, Tắt Quanh Queo, Trà Ết, Trà Lồng, Trà Niền,…
khiến người đọc tưởng chừng như lạc vào một không gian xa lạ nào đó không phải
trên đất nước mình. Rất nhiều cái tên khác cũng ấn tượng không kém về sự hoang
dã, tự nhiên: Cổ Cò, Cổ Tron, Cù Lao
Cát, Cù Lao Dung, Đầu Sấu, Giồng Ông Tố, Giồng Tháp, Gò Găng, Gò Quao, Hòn
Chông, Hòn Đất, Ba Giồng, Ba Láng, Bãi Xàu, Bàu Láng, Bảy Ngàn, Bò Ót, Cái Bè,
Cái Côn, Cạnh Đền, Cát Lái, Cần Chông, Lai Vung, Lung Tràm, Rạch Bần, Rạch Tre,
Sáu Ngàn, Tràm Cừa, Tràm Trốc, U Minh,... Hãy nghe nhà văn giải thích về
tên ấp Cà Bây Ngọp trong truyện ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư: “Xứ
Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa
là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp,
trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bệnh hoạn, thưa
thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học”2. Qua câu chuyện về
xứ Cà Bây Ngọp, người đọc có dịp biết đến từ “len” trâu, và Mùa len trâu là
tựa đề một truyện ngắn hay của Sơn Nam đã được dựng thành phim đạt
nhiều giải thưởng quốc tế bởi đạo diễn trẻ Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Có lần ông
giải thích về cụm từ ấy như sau: “"Len" trong tiếng Khmer có nghĩa là đi tự do, "len
trâu" có nghĩa là cho trâu đi tự do. Ở đây nước lụt, nước lụt từ 1m
đến 4m. Người ta ở nơi lụt, người ta không có chỗ ở là phải, và trâu cũng không
có chỗ ở. Cho nên nó phải đi đến những vùng đất cao để có cỏ cho nó ăn (…). Có
khi đến ba bốn tháng mới đưa trâu về”3.
Nếu chưa đọc truyện của Sơn Nam, người đọc không thể hiểu được cái tựa phim được
lấy lại từ tên một truyện ngắn như vậy.
Một truyện ngắn khác cũng có nhan
đề khá lạ lẫm với người đọc ngày nay: Ruộng Lò Bom. Được biết trong quá
trình khẩn hoang, người nông dân Nam Bộ không chỉ biết làm ruộng ở nơi bằng
phẳng hay đất cao, bãi bồi, mà họ còn có cả những kinh nghiệm làm ruộng ở những
vùng thấp trũng, hoang vu, ngập lụt, phèn nặng, thiếu kinh rạch, muỗi mòng, khó
khăn trăm bề gọi là “ruộng Lò Bom”. Đó là nơi quan Tây chê mà điền chủ người Việt
cũng không thèm khai khẩn, vì sợ tốn tiền đóng thuế rốt cuộc chẳng thu được huê
lợi gì. Trong truyện, anh thanh niên tên Tư Cồ đã học được kỹ thuật làm ruộng này
với một ông lão vô danh, và anh đã làm giỏi hơn bọn Tây, ta vừa nói: “Cỏ bị
chặt đứt gốc trôi lều bều. Hai tháng nữa, nước giựt xuống. Cỏ đã thúi, trở
thành loại phân tốt, rải đầy trên mặt đất. Hai tháng nữa, tức là tháng Hai
tháng Ba âm lịch, trời nắng cháy. Vợ chồng Tư Cồ sẽ trở lại đó, đốt cỏ. Rồi
gieo lúa giống, loại lúa Xom Mà Ca từ lúc gieo đến lúc trổ bông là bốn tháng”4.
Cứ như thế, có biết bao nhiêu cách làm ăn sinh sống của người dân Miệt Vườn đã
đi vào trang viết của nhà văn…
Ngòi bút Sơn Nam còn làm sống lại một cách sinh động nhiều mặt của đời
sống quá khứ vài trăm năm trước nơi vùng đất phương Nam này: từ chuyện thời
Đàng Cựu, chuyện khẩn hoang, chuyện tranh chấp của các thế lực thời kì Trịnh -
Nguyễn, chuyện Gia Long bôn tẩu, chuyện Tây Sơn vào Nam dẹp giặc Xiêm, đánh
Nguyễn Ánh, chuyện đấu tranh giữa ta và Tây,… đến lai lịch của từng vùng đất cụ
thể như Sài Gòn, Gia Định, Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Rạch Giá, U Minh, Bình
Thủy, Ô Môn, Cần Thơ, Cà Mau,..; rồi chuyện về quan Tây, quan ta; chuyện kháng
chiến; chuyện tranh chấp gia đình, cá nhân; chuyện nông thôn, thành thị; chuyện
trước và sau ngày hòa bình thống nhất đất nước; chuyện sinh hoạt, giải trí;
chuyện yêu đương, tình cảm gia đình, xã hội; chuyện về các loại hình nghệ thuật
dân gian như hát bội, ca vọng cổ, đờn ca tài tử, hát huê tình, hò vè đối đáp, thai
đố, nói thơ, nói truyện, hát cải lương,... Chính những năm tháng sống chan hòa,
chịu khó đi nhiều, khéo nắm bắt, học hỏi và tra cứu, Sơn Nam đã có được một vốn
sống cực kì phong phú và đa dạng như vậy. Đọc tác phẩm của ông, người đọc như được
tiếp xúc với những người dân Nam Bộ đủ thành phần, hạng người, nghề nghiệp. Ông
am hiểu nhiều nghề có tính đặc thù như: câu sấu, bắt sấu, bắt rắn, trị rắn cắn,
bắt cá, bẫy chim, tằn khạo, thương hồ, làm ruộng dạo, xúc hột sen, gác kèo, ăn
ong, len trâu, làm ruộng, làm rẫy, làm vườn, đóng đăng, đóng đáy, xây nò, xây
rọ,... Ba dân tộc đồng thời là những chủ nhân của vùng đất Nam Bộ được đề cập
thường xuyên là Kinh, Hoa, Khmer. Ông tường tận nhiều phong tục, tập quán, lễ
hội của các dân tộc cùng cộng cư như Tết cổ truyền, tục cúng vật/việc lề, tục
lệ đốt đèn trời, thờ cúng tổ tiên, giỗ ông bà, cúng thần thánh, lễ cúng trăng,
đua ghe ngo, ngày bổ tróc, các lễ hội Kỳ Yên, Nghinh Ông, Chôl Chnam Thmây (còn
gọi là lễ hội Mừng năm mới), Đôn Ta, Ok Om Bok,... Người Khmer được đề cập với
nhiều tình cảm ông dành cho họ. Nhiều lần ông kể về bút danh Sơn Nam của mình gắn
liền với những kỉ niệm đẹp từ thuở ấu nhi với một bà mẹ Khmer tốt bụng.
Khó có thể kể hết những tác phẩm của Sơn Nam viết về những sinh hoạt đời
thường trên vùng đất này, như các truyện Bắt
sấu rừng U Minh Hạ, Bốn cái ngu, Cái tổ ong, Con Bảy đưa đò, Hát bội giữa
rừng, Hương rừng, Mùa “len” trâu, Ngày mưa đầu mùa, Ông Bang
cà ròn, Ruộng Lò Bom, Tình nghĩa giáo khoa thư, Xóm Cù Là,... (tập Hương rừng Cà Mau); Cấm bắt
rùa, Con Bà Tám, Hai cõi U Minh, Kéo trúm, Lũ trẻ chăn trâu, Ngày hội ba khía, Vọc nước giỡn trăng,…(tập Biển
cỏ miền Tây). Thông qua mỗi câu chuyện, một phần hình ảnh của ông cha ta
xưa hiện lên, giúp cho nhiều thế hệ người đọc hiểu thêm về cuộc sống đầy gian
lao, thử thách của họ trong tiến trình mở cõi. Không thể tưởng tượng được rằng,
xưa kia nghể bắt sấu có thể làm giàu. Song, ông Năm Hên trong truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ không màng thứ “phú
quới” đó. Ông cho biết “ở miệt Rạch giá,
Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Đầm Sấu, Lung sấu, Bàu Sấu, sau
này hỏi lại tôi mới biết, đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà
Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua mới đặt tên
như vậy”5. Và với tài nghệ của mình, Năm Hên đã bắt lên từ ao
sấu xóm Cái Tàu vùng U Minh Hạ bốn mươi lăm con còn sống nhăn, con này buộc nối
đuôi con kia, khiến nhiều người “há miệng
sửng sốt”, người khác thì “khấn vái
lâm râm, e nay mai xóm này bị sự trừng phạt của quỉ thần”6! Lấy
cảm hứng từ hai câu ca dao có liên quan đến cuộc sống, sinh hoạt của người nông
dân xưa: Trên đời bốn thứ nhàn du/Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu, và:
Trên đời có bốn thứ ngu/Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu - hai câu chỉ
khác có mỗi từ nhàn du/ngu - ông đã viết nên truyện Bốn cái ngu rất sinh động. Ở truyện
Chiếc ghe “ngo”, Sơn Nam đưa người
đọc đến với không khí lễ hội của đồng bào Khmer cùng những cuộc đua ghe ngo vô
cùng hào hứng, phấn khích. Con Bà Tám
là câu chuyện về một loại rùa khổng lồ có tám cái sọc trên lưng mà người xây nò
Xiêm bắt cá ngoài biển khơi rất sợ gặp phải, nghe đâu “nó ở miền Xanh-Ga-Bo, lâu lâu xiêu lạc qua xứ mình. Phải đuổi nó ra cho
khéo léo, kẻo bao nhiêu cây nọc cây rạo của nò mình ngã nghiêng hết”7…
Xuôi ngược, lăn lộn ở U Minh từ thuở nhỏ, lời văn của Sơn Nam như tuôn
chảy ra từ một vốn sống ngồn ngộn, tươi rói, chứa đựng tình cảm, thái độ của
người viết cùng nhiều kiến thức về thực tế đời sống, nên có sức hấp dẫn lạ kì.
Ông nói về sân chim, về chuyện ăn ong, bắt cá, bẫy chim, đặt lươn, bắt rùa, bắt
rắn, bắt sấu,… rất thú vị. Truyện Con rắn
ri voi hiện lên hình ảnh ông lão Bảy Đăng khật khùng, uống rượu li bì, say
té lăn, ngủ bờ ngủ bụi; vậy mà mỗi ngày ông câu có hơn ba chục con rắn ri voi,
giỏi hơn tụi trai tơ. Thì ra trong một lần Bảy Đăng uống rượu, ngủ quên rồi quơ
tay tìm kiếm, chai rượu bị đổ ra. Cái “thuốc mê” ấy khiến lũ rắn hăng hái bò
trườn đến gần miệng chai, vì chúng rất thích ngửi hơi rượu đế thứ ngon. Phát
hiện đó đã khiến chai rượu bỗng chốc trở thành “cái cần câu rắn” của lão. Từ
đó, muốn bắt chúng, lão chỉ cần đổ rượu xuống rạch rồi bắt!... Trong Tháng chạp chim về, nhà văn viết về
những sân chim vùng rạch Giá, Hà Tiên mà trời đất đã dành riêng cho, trải dài
từ vàm đến ngọn sông Cái Lớn, bao nhiêu là sân: sân Cái Nước, sân Thầy Quơn,
sân Thứ Nhứt… chưa kể đến mấy cái sân ở giữa rừng chưa ai bước chân tới. Ông
cũng viết về hai loại chim: có thứ làm ổ trên cây và có thứ làm ổ trên mặt đất.
Đặc biệt, ông viết về con chim già sói sống ít nhất năm chục năm mà có nghĩa
lắm, không đành bỏ sân chim. Do bị đánh bắt tiêu diệt lần hồi, nó là một trong
vài con chim lớn may mắn còn sót lại. Song, năm nào cũng như năm nào, hễ cứ đến
tháng Chạp là một mình nó bay về rạch Đường Sân. Như thấu cảm nỗi niềm tâm sự
của hai “người bạn già” - ông Tư lão nông và con chim già sói - gặp lại nhau
sau khi đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biến đổi của cuộc đời, ông viết:
“Nó nhìn ông Tư, râu tóc bạc phếu. Ông Tư nhìn nó. Có lẽ ông nghĩ đến phận
mình mà nảy sinh ra bao mối cảm hoài. Trong con tim già, qua thời gian, giờ đây
chắc chắn đã lắng xuống hết bao hung bạo của thời xuân xanh của ông và của đất
nước hoang vu”8.
Một điều dễ nhận thấy là hệ thống nhân vật trong truyện của Sơn Nam đều
bộc lộ suy nghĩ, tâm lí, hành động hoàn toàn phù hợp với đặc trưng tính cách Nam
Bộ của họ. Đó là những con người trọng nghĩa nhân, khinh tiền tài, chân thành,
mộc mạc, cương trực, hào hiệp,.. Thành công đó bắt nguồn tự sự từng trải của
nhà văn được nhào nặn trong suốt những năm tháng sống bình dị, chan hòa với
cuộc sống của quần chúng ở nông thôn lẫn thành thị. Nhiều người đọc phía Nam hẳn
như thấy mình trong các nhân vật được ông xây dựng thành công như: lão Nhị, lão Ngượt, ông Từ Thông, ông Đạo
Đất, ông Bang cà ròn, Lục cụ, bà Chúa Hòn, Cai tổng Biện, giáo Lý, giáo Trích,
thầy Chà, thầy Hai Rắn, cô Ngó, cô Út, cậu Ba, cậu Hai Điền, Hai Cần, Tư Hạnh,
Tư Hiếm, Năm Hến, Năm Tự, Bảy Út, Tám Theo, Mười Hấu, Mười Hy,.... Đọc nhiều
đoạn đối thoại giữa cô Huôi (bà Chúa Hòn) với Tư Thiện trong tiểu thuyết Bà Chúa Hòn, độc giả bắt gặp tính cách một
người phụ nữ tuy ít học nhưng có những nghĩ suy thấu tình đạt lí, thể hiện nét
bình dân, chân chất nghĩa tình của người dân Nam Bộ. Ở truyện dài Xóm Bàu Láng người đọc không thể quên
lão Khăn Đen và cai tổng Biện là kẻ thù của nhau. Tuy vậy, khi cai tổng Biện
vừa mãn án bảy năm tù trở về, chính lão Khăn Đen là người chào đón ông một cách
nhiệt tình như những người bạn sống có nghĩa thủy chung với nhau: “Chắc rằng lúc ở tù, ông nhớ tôi nhiều lắm.
Tôi ở đây, đếm từng ngày. Ông về trễ ba mươi ngày đó. (…) Bây giờ, tôi muốn ăn
hiền ở lành. Nhưng tôi khuyên ông cai đừng về nhà chi cho vội. Ghé vô chòi tôi
chơi”. Thái độ đó của lão đã khiến cai tổng Biện suy nghĩ miên man: “Tại sao tên cướp ấy lại hiền lành và thành
thật đến thế”9 và đã theo chân lão ta vào chòi. Trong truyện Đảng “Cánh Buồm Đen”, Sáu Bộ tuy là chúa
đảng nhưng đã kiên quyết giải nghệ khi lỡ tay giết oan một người ở thuê cho chủ.
Nắm trong tay cây roi và “đường quờn Lưu Thủy” ít ai biết, được truyền từ vị sư
tổ, ông không nỡ tiếp tục mai danh ẩn tích vì cảm thấy nhục nhã như thiếu một
món nợ gì đối với trời đất, núi non, không xứng đáng với chức vị “chặt đầu Tây”
giành cho người dày công tu luyện. Vì thế, dù tuổi đã cao, Sáu Bộ vẫn sẵn sàng
truyền lại bí quyết nhiệm màu của đường quờn ấy cho lớp thanh niên yêu nước; thậm
chí hiến tặng cây roi để chặt ra làm cán mác, hay “làm gì thì làm, miễn dùng nó được thì thôi”10 cho cuộc đánh
Tây. Ông hương cả Binh trong truyện Con
ngựa đất cũng chính là một nhân cách Nam Bộ rạng ngời, tiêu biểu cho những con
người nghĩa khí sống chết vẫn không rời căn nhà, mảnh đất quê hương, chọn cái
chết vinh hơn sống nhục khi đối đầu với bọn xâm lược bạo tàn (tập Hương rừng Cà Mau)…
Nét đặc sắc làm nên “chất” Sơn Nam chính là văn phong của nhà văn. Đó là sự
kế thừa và phát huy mạnh mẽ phong cách văn xuôi của những nhà văn Nam Bộ trước kia
như Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Phi Vân, Vương Hồng Sển, Bình
Nguyên Lộc,... Đặc biệt ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật mang đầy đủ đặc
trưng của phương ngữ Nam Bộ trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và
phong cách diễn đạt đã làm nên nét độc đáo nổi trội trong sáng tác của Sơn Nam.
Ở đây, ngôn ngữ dẫn chuyện, kể chuyện của nhà văn có thể xem là tiêu biểu của
lối “văn nói” Nam Bộ thường ngắn gọn, bình dân, nhiều từ ngữ giao tiếp hằng
ngày được thể hiện thành lời văn. Thí dụ, đoạn mở đầu truyện ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ: “Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng
nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích chốn sông sâu nước chảy, có sóng
gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tịnh, chật hẹp. Vùng U Minh Hạ sấu
thường đi ngược sông Ông Đốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm. Tại sao vậy? Tuy
là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chính. Rừng U Minh Hạ
thuộc về loài tràm thủy, cá sanh sôi nảy nở rất nhanh chóng; lên đó, tha hồ mà
ăn”11. Hay đoạn văn nói đến những trăn trở của Tư Lập trong Hương rừng khi quyết định ra đi rồi lại
trở về khu rừng U Minh, mảnh đất lập nghiệp ban đầu của mình: “Hôm sau, chú
viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong
nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về
Long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại
sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại không
được. Chú lại trở về”12.
Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng là ngôn ngữ thường ngày của người
dân thể hiện tính cách, tâm lí ứng xử của họ trong mọi hoàn cảnh khác nhau. Rất
nhiều từ ngữ Nam Bộ dùng trong văn cảnh được Sơn Nam khéo léo lồng vào câu
chuyện và diễn giải một cách cẩn thận. Điều này cho thấy sự quan tâm sâu sắc của
ông với vốn từ địa phương, vì sợ rằng với thời gian chúng có thể bị mai một, thí
dụ: bòng bong, bồn bồn, cà ràng, chạy tờ, choại, chòi mui, củi lục, điệu
nghệ, ghe cui, huê xà, hươi, lái rổi, len trâu, miệt thứ, ngủ nước, nò cạn, nò
Xiêm, nước rặc, phân đồng, sở Thượng, tam sên, tắt, tầm bo, thèo lèo, thị quá,
thỏn mỏn, xài giấy năm trăm, xiêm lo, xính xái, xổ nho,.... Ngoài ra, ông
còn đưa vào trang viết một khối lượng rất lớn từ ngữ Nam Bộ hay dùng trong cuộc
sống như: ảnh, ăng kết, bà cậu, bảnh, bển, bịnh, bóp đầm, bông rua, bùng
binh, cà rá, cá kèo, chén, chẹt, Chà và, Chệt Sơn Đông, con mẻ, dân Năm Căm,
dân Sài Gòn, dòm, dợm, giấy bộ lư, giấy con công, hàng xáo, hát bóng, heo, hóc
Bà Tó, kinh, láng, lỏn chỏn, lội, mần, miệt dưới, ổng, qua, rạch, ròng, tằn khạo,...
3. Cuộc
đời và văn nghiệp của Sơn Nam là sự nối kết của những chuyến đi bộ thâm nhập
thực tế, nghiên cứu điền dã không biết mệt mỏi, như ông vẫn thường tâm sự với
những cây bút trẻ: “Ðọc sách bằng mắt
chưa đã thì anh “đọc bằng chân”, đi cũng biết được nhiều!”13. Đó
cũng là quan niệm sáng tác mà nhà văn đã minh chứng bằng cả cuộc đời cầm bút.
Một câu nói tâm huyết của ông được nhiều người nhắc đến, ông xem đó là phương
châm sống và viết của cuộc đời mình: Viết
văn để viết văn, để yêu nước, chứ không nhằm mục đích nào khác!
Tròn sáu mươi năm cầm bút, Sơn Nam đã tiếp
nối xứng đáng truyền thống văn xuôi Nam Bộ qua những sáng tác văn chương và
công trình biên khảo có giá trị đặc sắc. Giống như khi nói đến Toan Ánh của Bắc
Ninh, Nguyễn Vinh Phúc của Hà Nội, Quách Tấn của Bình Định, Nguyễn Văn Xuân của
Quảng Nam, Võ Hồng của Phú Yên, Bình Nguyên Lộc của Đồng Nai - Biên Hòa,... nói
đến Sơn Nam là nói đến một nhà văn, một nhà Nam Bộ học tên tuổi của miền Tây
Nam Bộ và của cả nước đã dành toàn bộ tâm huyết, trí lực cả một đời để tìm
hiểu, khai phá vùng đất mà mình đã sống, góp phần khẳng định mạnh mẽ bản sắc
văn hoá của đất và người phương Nam trong nền văn hoá chung của dân tộc. Ông như một cây đước già gân guốc bám sâu chặt
gốc rễ vào lòng đất phù sa ngập mặn mà vẫn cố vươn ra với đời; là cây bút uyên
bác, mẫn tiệp, cả một đời gieo trồng chữ nghĩa trên đồng ruộng sình lầy phương
Nam nhưng vẫn lạc quan, yêu người,
yêu cuộc sống cho đến những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời.
_____________________
Chú thích:
2,4,5,6,8,10,11,12. Sơn Nam (2004), Hương
rừng Cà Mau, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 875, 792, 89, 90, 828-829,
368, 85, 566.
7. Sơn Nam (2003), Biển cỏ miền Tây – Hình bóng cũ, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.
35.
9. Sơn Nam (2005), Xóm Bàu Láng, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 388-389.
(*) Bài viết đã được đăng trên tạp chí Lý
luận Phê bình Văn học, nghệ thuật (Hội đồng Lý luận Phê bình Văn học,
nghệ thuật Trung ương) số 43, 3-2016, tr. 55-60.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét