Integrative Literature teaching satisifies the
purpose of developing calibre and capacity of students
TS Phạm
Thanh Hùng - Trường Đại học An Giang
Abstract: Integrative and differential teaching is one of
the core issues of educational methods, which is emphasized and clarified in
the General Education Program (July 2017) as well as the renovated Draft
Curriculum for general education in Literature (January 01, 1818). This article
represents the integrative teaching and how to integrate teaching in
Literature, as to promote the quality and capacity of students at secondary
schools and high schools. This issue is getting attention and contributing
opinions of people from all strata of society, especially teachers, before the
official course syllabus and textbooks are compiled.
Keywords: Integration, internal intergration,
multi-disciplinary intergration, inter-disciplinary intergration,
cross-disciplinary integration, Draft Curriculum for general education in
Literature.
Tóm
tắt:
Dạy học tích hợp và phân hóa là một trong những vấn đề cốt lõi về phương pháp
giáo dục được nhấn mạnh và làm rõ thêm trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể (tháng 7/2017) cũng như Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn
(tháng 01/2018) đổi mới. Bài viết đề cập khái quát nội dung dạy học tích hợp và
dạy học tích hợp môn Ngữ văn như thế nào nhằm đáp ứng mục tiêu phát huy phẩm chất
và năng lực học sinh bậc phổ thông (trung học cơ sở và trung học phổ thông), một
vấn đề đang nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân, nhất là các nhà giáo, trước khi chương trình các môn học chính thức
thông qua và sách giáo khoa biên soạn mới được đưa vào áp dụng.
Từ
khóa: Tích
hợp, tích hợp nội môn, đa môn, liên môn, xuyên môn, Dự thảo Chương trình giáo dục
phổ thông môn Ngữ văn.
1.
Mở đầu
Trong tự
nhiên, mọi sự vật, hiện tượng ít nhiều đều có mối liên hệ với nhau, thậm chí
nhiều sự vật, hiện tượng có những điểm tương đổng hoặc có chung một cội nguồn.
Để nhận thức và giải quyết các vấn đề có liên quan với sự vật, hiện tượng ấy,
người ta cần huy động tổng hợp các kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Sự
xuất hiện ngày càng nhiều các khoa học liên ngành đã cho thấy sự đơn lập trong lĩnh
vực khoa học sẽ không giải quyết được những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Ở lĩnh
vực khoa học giáo dục cũng như thế. Dạy học tích hợp là xu hướng chung của giáo
dục phổ thông các nước trên thế giới. Thông qua dạy học tích hợp, giáo viên
hình thành cho học sinh những kiến thức, kĩ năng mới, phát triển những năng lực
cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc
sống.
Trong Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ
văn trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) đổi mới lần này (tháng
01/2018), được lấy ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân đến hết tháng 04/2018
và tổ chức dạy thực nghiệm từ 23/3 đến 23/4 vừa qua, khi đề cập đến phương pháp
giáo dục, vấn đề dạy học tích hợp và phân hóa đã được nhấn mạnh và làm rõ hơn
so với các lần cải cách giáo dục trước đây. Bài viết sẽ đề cập đến những nội
dung liên quan đến dạy học tích hợp và dạy học tích hợp môn Ngữ văn nhằm đáp ứng
mục tiêu phát huy năng lực và phẩm chất cho học sinh phổ thông.
2.
Nội dung nghiên
cứu
2.1. Tích hợp –
Tích hợp nội môn, đa môn, liên môn và xuyên môn
2.1.1. Tích
hợp là gì? Thế nào là dạy học tích hợp?
Tích hợp (tiếng Anh: Integration; tiếng Pháp: Intégration)
là một khái niệm rộng, không chỉ dùng trong lí luận dạy học. Theo định nghĩa của
UNESCO, tích hợp là “Một cách trình bày các khái niệm và nguyên lí khoa học cho
phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh
hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau” [1;
tr 7]. Như vậy, tích hợp có nghĩa là sự
xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng
lẻ. Trong giáo dục, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống,
ở những mức độ khác nhau các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc
các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối
liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp
phần của bộ môn đó. Tích hợp là một
trong những quan điểm dạy học nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo
những người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề trong học
tập và trong cuộc sống hiện đại.
Dạy học tích hợp (Integrated teaching)
là một quan niệm giáo dục toàn diện con người xuất hiện từ thời kì Khai sáng
(thế kỉ XVIII) nhằm chống lại hiện tượng phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Dạy
học tích hợp là định hướng dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn học
sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, đời sống; từ đó hình thành những kiến thức,
kĩ năng mới, phát triển những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn
đề trong học tập và trong cuộc sống. Dạy học tích hợp cũng có nghĩa là đưa những
nội dung giáo dục có liên quan thuộc những môn học, lĩnh vực khác nhau vào quá
trình dạy học các môn học như: tích hợp văn học với lịch sử, địa lí, văn hóa,
xã hội, đạo đức, lối sống; tích hợp giáo dục công dân với giáo dục pháp luật,
chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo, an toàn giao thông; tích hợp vật lí,
hoá học, sinh học với giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ
môi trường bền vững, chống biến đổi khí hậu, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe…
Nhiều nước tiên tiến trên thế giới như
Hoa kì, Anh, Thụy Sĩ, Australia, Hàn Quốc, New Zealand, Nhật Bản, Singapore,… đã
thực hiện quan điểm tích hợp một cách hiệu quả trong dạy học. Theo giáo sư (GS)
Đinh Quang Báo, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực,
trong một nghiên cứu mới đây của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam về chương
trình giáo dục phổ thông 20 nước đã cho thấy 100% các nước đều xây dựng chương
trình theo hướng tích hợp. GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng Chủ biên Chương trình
giáo dục phổ thông mới, cho rằng: “Dạy học tích hợp là xu thế chung của chương
trình giáo dục phổ thông các nước. Tuy nhiên, có nhiều mức độ tích hợp khác
nhau. Các môn Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lý trong chương trình giáo dục
phổ thông của Việt Nam mới tích hợp ở mức độ thấp, tức là tích hợp liên môn, chứ
chưa phải là tích hợp ở mức độ cao như nhiều nước trên thế giới” [2]. Tuy
vậy, đến nay nhiều giáo viên vẫn hiểu chưa đúng hoặc còn rất mơ hồ về dạy học
tích hợp. Chẳng hạn, có giáo viên biến giờ dạy văn thành giờ giáo dục bảo vệ
môi trường, giáo dục về dân số rất sống sượng; hay dựa vào kiến thức của môn học
này để nói đến một nội dung giáo dục khác, khiến nội dung kiến thức môn đang học
bị suy diễn, lệch lạc…
2.1.2. Các dạng tích
hợp
Dạy học tích hợp có các dạng sau:
2.1.2.1. Tích hợp nội môn
Tích hợp nội môn là sự gắn kết, đảm bảo tính đồng bộ giữa các nội dung liên quan của các phân môn trong một môn học, hoặc lồng ghép các vấn đề cần thiết nhưng không thành môn học vào môn học tùy theo đặc trưng của từng môn như môi trường, năng lượng, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản,…
2.1.2.2. Tích hợp đa môn
Tích hợp đa môn tập trung
trước hết vào các môn học liên quan với nhau có chung một định hướng về nội
dung và phương pháp dạy học nhưng mỗi môn lại có một chương trình riêng. Tích
hợp đa môn được thực hiện theo cách tổ chức các môn học xoay quanh một chủ đề,
đề tài, dự án, tạo điều kiện cho người học vận dụng tổng hợp kiến thức của các
môn học có liên quan.
Với tích hợp liên môn,
giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các nội dung học tập chung,
như các chủ đề, các khái niệm và kĩ năng liên ngành, liên môn. Tích hợp liên
môn còn được hiểu như là phương án, trong đó nhiều môn học liên quan được kết
lại thành một môn học mới với hệ thống những chủ đề nhất định xuyên suốt qua
nhiều cấp lớp. Ví dụ: Lịch sử, Địa lí, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Giáo dục công
dân, Xã hội được tích hợp thành môn “Nghiên cứu xã hội và môi trường” trong chương
trình giáo dục phổ thông ở Anh, Australia, Singapore, Thái Lan.
2.1.2.4. Tích hợp xuyên môn
Trong dạy học tích hợp
xuyên môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các vấn đề và mối quan
tâm của người học. Học sinh phát triển kĩ năng sống khi áp dụng các kĩ năng môn
học và liên môn vào hoàn cảnh thực tế. Con đường dẫn đến tích hợp xuyên môn là khi
học tập theo dự án và thương lượng chương trình học. Có thể xem tích hợp xuyên
môn là đỉnh cao của dạy học tích hợp khi ranh giới giữa các môn học bị xóa
nhòa.
2.2. Tích
hợp trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (tháng 7 năm 2017)
2.2.1. Chủ trương tích hợp
Chủ trương dạy học tích hợp trong
chương trình mới có một số điểm khác so với chương trình hiện hành như: tăng
cường tích hợp nhiều nội dung trong cùng một môn học, xây dựng một số môn học
tích hợp mới ở các cấp học; tinh thần chung là tích hợp mạnh ở các lớp học dưới
(tiểu học, THCS) và phân hoá dần ở các lớp học trên (THPT); yêu cầu tích hợp
được thể hiện cả trong mục tiêu, nội dung, phương pháp và thi, kiểm tra, đánh
giá giáo dục.
2.2.2. Định hướng các dạng
tích hợp
Trước hết, định hướng tích hợp được
thể hiện ngay trong nội môn. Chẳng hạn, trong chương trình môn Ngữ văn sẽ có sự
tích hợp giữa các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe; tích hợp giữa kiến thức văn
học và kiến thức tiếng Việt trong quá trình dạy học các kĩ năng này. Các môn
học khác, tùy vào đặc điểm và tính chất môn học mà thực hiện yêu cầu tích hợp
giữa các phân môn, các phần của mỗi môn học. Việc tích hợp trong chương trình
các môn học cũng không chỉ thể hiện ở nội dung dạy học mà còn ở cả yêu cầu cần
đạt (chuẩn đầu ra).
Ngoài yêu cầu tích hợp nội môn,
chương trình mới còn thực hiện ở các môn học tích hợp. Ở chương trình cấp tiểu
học (TH) hiện hành, các môn Tự nhiên và Xã hội ở các lớp 1, 2, 3; môn Lịch sử
và Địa lý, môn Khoa học ở các lớp 4, 5 vốn đã có tính tích hợp. Trong chương
trình giáo dục phổ thông mới, tính tích hợp trong những môn học này sẽ được thể
hiện đậm nét hơn thông qua các chủ đề chung giữa các phân môn.
Chương trình cấp THCS lần này khác
chương trình hiện hành là có một số môn tích hợp, đó là môn Lịch sử và Địa lí
và môn Khoa học tự nhiên. Việc tích hợp được thiết kế ở mức thấp. Đó không phải
là sự lắp ghép cơ học các phân môn trong Khoa học tự nhiên cũng như trong Lịch
sử và Địa lí.
Trong chương trình của mỗi môn, các
mạch nội dung có sự kết nối ở mức có thể, để tránh trùng lặp; kiến thức và kĩ
năng của phân môn này giúp làm sáng rõ hơn kiến thức và kĩ năng của phân môn
kia; giúp học sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng của từng phân môn nhằm giải
quyết các vấn đề đòi hỏi từ cách tiếp cận liên môn.
Với chương trình môn Khoa học tự
nhiên, nội dung đã cố gắng tập trung thiết kế thành các chủ đề lớn như vật
chất, vật sống, năng lượng và sự biến đổi, trái đất và bầu trời. Các kiến thức
và kỹ năng Vật lí, Hóa học, Sinh học đều được triển khai trong phạm vi những
chủ đề này.
Ở chương trình môn Lịch sử và Địa lí,
nội dung được thiết kế thành hai mạch tương đối độc lập, có gắn kết để giáo
viên và học sinh thấy được mối liên hệ giữa Lịch sử và Địa lí thông qua việc
tìm hiểu, khám phá các sự kiện trong thời gian và không gian.
Ngoài ra, tính chất tích hợp của môn
học này còn được thể hiện ở một số chủ đề chung như Khám phá các dòng sông lớn
trên thế giới, Văn minh châu thổ sông Hồng, Bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam,
Đô thị,...
Cuối cùng, việc tích hợp trong
chương trình giáo dục mới thể hiện ở yêu cầu tất cả các môn đều phải lồng ghép
một số nội dung giáo dục (chủ đề xuyên môn) mang tính cấp thiết, có ý nghĩa dân
tộc và nhân loại như giáo dục bình đẳng giới, giáo dục tài chính- kinh doanh,
chủ quyền biển đảo, môi trường và phát triển bền vững…
2.3.
Dạy học tích hợp môn Ngữ văn đáp ứng mục tiêu phát huy phẩm chất và
năng lực học sinh
2.3.1. Khái quát Chương trình Ngữ văn
Chương
trình giáo dục môn Ngữ văn (Dự thảo, tháng 01/2018) được xây dựng theo hướng mở, lấy các kĩ năng
giao tiếp đọc, viết, nói và nghe làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học (TH,
THCS, THPT) nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, đồng
thời đảm bảo tính chỉnh thể, nhất quán trong tất cả các cấp học. Hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về văn học và
tiếng Việt được tích hợp vào hoạt động dạy đọc, viết, nói và nghe.
Chương trình không quy định chi tiết
về nội dung dạy học và các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt
về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp. Quy định một số kiến thức cơ bản, cốt
lõi về văn học, tiếng Việt và 06 văn bản quan trọng (ngữ liệu) của văn học dân
tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh cả nước. (Sáu văn bản đó
là: Nam quốc sơn hà (tương truyền của
Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ của Trần
Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn
Du, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của
Nguyễn Đình Chiểu, Tuyên ngôn độc lập
của Hồ Chí Minh).
Môn Ngữ văn hướng tới cho học sinh
cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng
cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và
ứng xử nhân văn; bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với tiếng Việt và văn học,
ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các
giá trị văn hoá.
Ngoài các năng lực chung, chương
trình môn Ngữ văn tập trung giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp và năng
lực thẩm mĩ; cung cấp hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về văn học và tiếng
Việt góp phần phát triển vốn học vấn căn bản của một người có văn hóa; hình
thành và phát triển con người nhân văn, biết tiếp nhận, cảm thụ, thưởng thức,
đánh giá các sản phẩm ngôn từ và các giá trị cao đẹp trong cuộc sống. Điểm khác
biệt nhất so với các chương trình trước đây là chương trình Ngữ văn lần này
được xây dựng xuất phát từ các phẩm chất và năng lực cần có của người học để
lựa chọn nội dung dạy học.
Các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp tập
trung vào bốn kĩ năng chính: đọc, viết, nói và nghe. Đọc, gồm yêu cầu đọc đúng
và đọc hiểu. Yêu cầu về đọc hiểu bao gồm các yêu cầu hiểu văn bản (trong đó có
cả đọc thẩm mỹ, cảm thụ, thưởng thức và đánh giá) và hiểu chính mình (người
đọc). Viết, không chỉ yêu cầu học sinh biết viết chữ, viết câu, viết đoạn mà
còn tạo ra được các kiểu loại văn bản, trước hết là các kiểu loại văn bản thông
dụng, sau đó là một số kiểu loại văn bản phức tạp hơn. Nói và nghe, căn cứ vào
nội dung của đọc và viết để luyện tập cho học sinh trình bày, nói và nghe tự
tin, có hiệu quả; từ nói đúng đến nói hay.
Từ các yêu cầu cần đạt nêu trên,
chương trình nêu lên các nội dung dạy học, bao gồm kiến thức về tiếng Việt, văn
học và ngữ liệu. Kiến thức tiếng Việt với các nội dung chủ yếu là: ngữ âm và
chữ viết; từ vựng; ngữ pháp; hoạt động giao tiếp; sự phát triển của ngôn ngữ và
các biến thể của ngôn ngữ. Kiến thức văn học gồm: những vấn đề chung về văn
học; các thể loại văn học; các yếu tố của tác phẩm văn học; một số hiểu biết sơ
giản về lịch sử văn học Việt Nam. Ngữ liệu cho mỗi lớp chỉ nêu lên định hướng
về kiểu loại văn bản, các ngữ liệu cụ thể được giới thiệu thành một Phụ lục gồm
văn bản bắt buộc và văn bản gợi ý.
2.3.2.
Dạy học tích hợp môn Ngữ văn
2.3.2.1. Định hướng khái
quát
Theo Chương trình Ngữ văn, dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên Ngữ
văn trước hết phải thấy được mối liên hệ nội môn (đọc, viết, nói và nghe), theo
đó nội dung dạy đọc có liên quan và lặp lại ở các nội dung dạy viết, nói và
nghe; kiến thức và kĩ năng đọc hiểu mà học sinh tích lũy được trong quá trình
tiếp nhận văn bản thuộc các kiểu loại khác nhau sẽ giúp cho kĩ năng viết, nghe
và nói tốt hơn. Những kiến thức và cách thức diễn đạt học sinh học được trong
quá trình đọc sẽ được dùng để thực hành viết. Tương tự, những điều học được khi
đọc và viết sẽ được học sinh dùng khi nói. Cùng với yêu cầu tích hợp nội môn,
trong khi dạy đọc, viết, nói và nghe, giáo viên còn phải biết tận dụng các cơ hội
để lồng ghép một cách nhuần nhuyễn, hợp lí vào giờ học các yêu cầu giáo dục
liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Nghệ thuật) và những nội dung giáo
dục ưu tiên xuyên suốt toàn chương trình giáo dục phổ thông (chủ quyền quốc
gia, hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc văn hóa, phát triển bền vững, bảo vệ môi
trường, quyền con người, quyền trẻ em, bình đẳng giới, giáo dục tài chính,... ).
Tất nhiên, dạy học tích hợp còn gắn liền với các hoạt động nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh, đa dạng hóa các phương pháp, hình thức tổ chức
và phương tiện dạy học mang tính đặc thù của môn học, sao cho khi kết thúc mỗi
cấp lớp, học sinh đạt được các yêu cầu cần đạt mà chương trình đã đề ra.
Trên
cơ sở đó có thể thấy, phạm vi tích hợp trong giờ dạy Ngữ văn rất phong phú: có
thể tích hợp nội môn (giữa ba phân môn Văn –Tiếng Việt – Làm văn hay giữa những
bài học có cùng chủ đề); có thể tích hợp liên môn Văn – Lịch sử (mở rộng theo
hướng vận dụng những kiến thức về hoàn cảnh lịch sử - xã hội, thời đại, về nhân
vật lịch sử,. . . để lí giải lịch sử phát sinh, khai thác giá trị về nội dung
và nghệ thuật, thành công và hạn chế của tác phẩm); tích hợp Văn – Địa lí
(theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết về các địa danh, thổ nhưỡng, khí hậu để
lí giải rõ chi tiết về thiên nhiên, hình tượng nhân vật,…); tích hợp Văn – Mĩ
thuật (có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa về một số hình tượng nghệ thuật
trong tác phẩm: thiên nhiên, con người,…); tích hợp Văn – Nghệ thuật (hát, ngâm
thơ, diễn kịch, sân khấu hóa)… Dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền
thông (PowerPoint, videoclip, tranh ảnh và các phần mềm ứng dụng khác), qua
kênh hình trình chiếu của giáo viên, học sinh sẽ tiếp cận được những hình ảnh
trực quan sinh động, đầy màu sắc và ấn tượng…
2.3.2.2. Định hướng cụ thể - một số gợi
ý
Từ những nội dung đã trình bày trên đây, có
thể thấy rằng giáo viên đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả giờ dạy Ngữ văn theo hướng tích hợp.
Chương trình và sách giáo khoa chỉ có tính định
hướng. Để dạy học tích hợp môn Ngữ văn đạt hiệu quả cao, giáo viên cần xác định
chính xác mục tiêu, nội dung tích hợp, phương pháp tích hợp cho từng bài/chuyên
đề học tập. Ngoài ra, cần phải đổi mới cách kiểm tra, đánh giá.
- Mục
tiêu: đó là mục tiêu cần đạt của bài học/chuyên đề. Giáo viên cần trả lời
câu hỏi: Vận dụng phương pháp giáo dục tích hợp ở bài học/chuyên đề này nhằm đạt
được gì về phẩm chất và năng lực học sinh?
+ Về phẩm chất: như tình yêu thiên nhiên; yêu
quê hương; biết ơn những người lao động, người có công với nước; biết trân trọng,
giữ gìn, bảo vệ cái đẹp, các giá trị văn hóa, lịch sử; biết quan tâm đến người
thân, tôn trọng bạn bè, thầy cô; trung thực và trách nhiệm trong học tập; có ý
chí vượt khó; sẵn sàng thực hiện trách nhiệm công dân…
+ Về năng lực: như năng lực tự chủ và tự học
(biết tự tìm kiếm, lựa chọn, đánh giá nguồn tài liệu phục vụ học tập; biết lưu
trữ, xử lí thông tin; có khả năng nhận biết cảm xúc, tình cảm, sở thích, cá
tính và khả năng của bản thân; biết tự làm chủ bản thân, tự nhận thức và điều
chỉnh những hạn chế của mình, không ngừng học hỏi); năng lực giao tiếp và hợp
tác (biết lựa chọn nội dung, kiểu loại văn bản, ngôn ngữ và các phương tiện
giao tiếp phù hợp; biết thảo luận, lập luận, đánh giá các vấn đề trong học tập
và đời sống…); năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo (như khả năng đánh giá nội
dung văn bản; biết phân tích các nguồn thông tin; có kĩ năng viết bắt đầu từ việc
hình thành ý tưởng và triển khai ý tưởng theo cách sáng tạo…); năng lực thẩm mĩ
(chỉ ra, phân tích, đánh giá được vẻ đẹp của các hình thức ngôn từ trong văn bản
văn học; nêu ra và phân tích được những giá trị thẩm mĩ thể hiện trong tác phẩm
văn học; hình thành và nâng cao nhận thức về cái đẹp và xúc cảm thẩm mĩ cá
nhân…); năng lực ngôn ngữ (hình thành và phát triển thông qua các kĩ năng đọc,
viết, nói và nghe).
- Nội
dung: giáo viên cần trả lời câu hỏi: Trong bài học/chuyên đề này, nội dung
nào cần được tích hợp? Cụ thể: Có nội dung nào có liên quan/tương đồng với kiến
thức các bài đã học? Có nội dung nào cần sử dụng/liên hệ kiến thức phân môn/môn
học khác để khai thác/mở rộng/vận dụng?
- Phương
pháp: giáo viên cần trả lời câu hỏi: Sử dụng phương pháp dạy học tích hợp
như thế nào ở bài học/chuyên đề này? Trong một bài học/chuyên đề, không phải nội
dung kiến thức nào giáo viên cũng tích hợp. Vì vậy, trước khi lên lớp, giáo
viên cần đầu tư suy nghĩ để xác định chính xác nội dung, phạm vi kiến thức cần
tích hợp, đồng thời lựa chọn ngữ liệu/dữ liệu phù hợp.
+ Về tích hợp nội môn: chẳng hạn khi dạy bài Cuộc chia tay của những con búp bê (Ngữ
văn 7, Tập 1), giáo viên có thể tích hợp với kiến thức phân môn Tiếng Việt qua
bài Từ láy, kiến thức phân môn Tập làm văn qua việc xác định ngôi kể trong câu
chuyện và nêu tác dụng của ngôi kể ấy. Dạy bài thơ Sóng - Xuân Quỳnh (Ngữ văn 12, Tập một), giáo viên có thể tích hợp
với kiến thức Tiếng Việt về một số phép tu từ cú pháp, tu từ ngữ âm đã học trước
đó như phép lặp cú pháp, điệp âm, điệp vần, điệp thanh; với kiến thức Tập làm
văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ… Cách tích hợp này còn được gọi là tích
hợp ngang giữa các phân môn (Văn – Tiếng Việt – Làm văn) trong cùng môn học Ngữ
văn có tác dụng làm sáng tỏ lẫn nhau, khác với tích hợp dọc: Văn bản - Văn bản,
Tiếng Việt - Tiếng Việt, Tập làm văn - Tập làm văn có tác dụng liên kết, tổng hợp,
mở rộng kiến thức. Chẳng hạn, khi dạy bài Câu đặc biệt (Ngữ văn 7, Tập 2), giáo
viên tích hợp với bài Rút gọn câu (Ngữ văn 7, Tập 2) trước đó. Ngoài ra, còn có
tích hợp dọc khác khối lớp. Thí dụ, khi phân tích hình tượng nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa –
Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12, Tập hai), giáo viên có thể tích hợp với đoạn
trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ
Như Tô – Nguyễn Huy Tưởng) (Ngữ văn 11, Tập một) với hình tượng Vũ Như Tô
đã học trước đó để nói về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, giữa lí tưởng
nghệ thuật với sự thật cuộc đời và lợi ích của nhân dân…
+
Về tích hợp đa môn/liên môn/xuyên môn: khi bài dạy có cùng chủ đề/đề tài/dự án;
nhiều môn học liên quan nhau kết hợp lại thành một môn mới với những chủ đề nhất
định được học qua nhiều cấp lớp, như việc xây dựng hai môn học mới: môn Khoa học tự
nhiên (trên cơ sở các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học hiện hành) và môn Khoa học
xã hội (trên cơ sở các môn Lịch sử, Địa lí hiện hành và một số vấn đề xã hội) ở
THCS; hoặc khi học tập
theo dự án và vấn đề thương lượng chương trình học được đặt ra thì có thể xem đó
là tích hợp xuyên môn, đỉnh cao của dạy học tích hợp khi ranh giới giữa các môn
học bị xóa nhòa.
-
Kiểm tra, đánh giá: ngoài phương pháp
dạy học tích hợp, trong lần đổi mới chương trình, sách giáo khoa lần này giáo
viên cần đổi mới cách kiểm tra, đánh giá với nhiều phương thức khác nhau. Cần
chuyển từ phương pháp dạy học truyền thụ áp đặt một chiều sang phương pháp dạy
học phát triển phẩm chất và năng lực (ở môn Ngữ văn là năng lực giao tiếp, năng
lực thẩm mĩ), theo đó chuyển cách đánh giá ghi nhớ máy móc, rập khuôn sang cách
đánh giá ưu tiên sáng tạo, tôn trọng ý tưởng mới và cách trình bày độc đáo…
3. Kết
luận
Đổi mới chương
trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông là những vấn đề quan trọng có tính định
kì của nền giáo dục mọi quốc gia. Hơn lúc nào hết, đổi mới chương trình giáo dục
và sách giáo khoa theo
định hướng phát triển phẩm chất và năng lực lần này đòi hỏi người học phải thực
hiện được, làm được, nói được, tạo ra được các sản phẩm chứ không dừng lại chỉ
biết lí thuyết. Với Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, dạy học theo
các định hướng tích hợp được nêu ra đòi hỏi giáo viên và học sinh cần phải vận
dụng các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực/môn học khác nhau trong việc thực
hiện, giải quyết một vấn đề hoặc làm ra một sản phẩm. Nội dung dạy học cần xác
định và trả lời câu hỏi: Để giải quyết vấn đề đã nêu trong yêu cầu cần đạt, người
học phải có những kiến thức, kĩ năng nào? Những kiến thức, kĩ năng ấy thuộc những
lĩnh vực/môn học nào? Môn nào đảm nhiệm chính, môn nào góp phần và hỗ trợ?...
Làm được như thế, việc dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp sẽ góp phần không nhỏ
vào lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam với mục tiêu: phát
triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học mà Nghị quyết 29 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã đề ra.
Tài liệu tham khảo
[1]
Nguyễn Kim Hồng, Huỳnh Công Minh Hùng (2013). Dạy học tích hợp trong trường phổ thông Australia. Tạp chí Khoa học
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 42, tr 7-17.
[2]
Nguyễn Minh Thuyết (2017). Định hướng đổi mới chương trình môn Ngữ văn. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 143, tr 23-27.
[3] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
[4] Bộ GD-ĐT
(2017). Chương trình giáo dục phổ thông –
Chương trình tổng thể.
[5] Bộ GD-ĐT
(2018). Chương trình giáo dục phổ thông
môn Ngữ văn.
[6] Chính phủ (2015). Quyết
định số 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 về Phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách
giáo khoa phổ thông.
[7] Quốc hội (2014).
Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 về Đổi mới chương trình, sách giáo
khoa giáo dục phổ thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét