(Trường Đại học An Giang)
Trang bìa trước Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học, nghệ thuật, số Xuân Đinh Dậu, tháng 1-2017 |
1.
Hơn bốn mươi năm kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất,
nhưng những công trình nghiên cứu về dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam giai
đoạn 1954 - 1975 mới chỉ phần nào đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập của đông
đảo bạn đọc cả nước.
Trong hai thập niên 60, 70 của thế kỉ trước, trên miền Bắc,
người đọc từng biết đến những bài viết về văn học công khai vùng bị tạm chiếm
miền Nam của Đặng Thai Mai, Nguyễn Đức Đàn, Trang Nghị, Trường Lưu, Thạch
Phương... đăng trên Tạp chí Văn học. Trong lòng đô thị Sài Gòn trước 1975, các cây bút lí luận -
phê bình như Lữ Phương, Vũ Hạnh, Trần Triệu Luật, Nguyễn Trọng Văn, Lý Chánh
Trung, Nguyễn Ngọc Lan đã có nhiều bài viết công khai bênh vực văn hóa, văn
nghệ yêu nước tiến bộ, mạnh mẽ chống lại thứ văn hóa, văn nghệ nô dịch, nguỵ
dân tộc. Từ sau năm 1975 đến nay, các công trình nghiên cứu của Trần Trọng Đăng
Đàn, Lê Đình Kỵ, Trần Hữu Tá, Tầm Vu, Nguyên Thanh, Viễn Phương, Hồ Sĩ Hiệp,
Huỳnh Như Phương, Trần Thức, Hoàng Dũng... đã giúp người đọc hiểu thêm về dòng văn
học yêu nước trên văn đàn công khai vùng đô thị miền Nam trước 1975. Mặc dù
vậy, người đọc vẫn chờ đợi những công trình tập trung nghiên cứu một cách tương
đối đầy đủ trên cả hai phương diện văn học sử và thể loại văn học. Ngay trong
giáo trình các trường đại học có chuyên ngành văn học Việt Nam, phần viết về dòng
văn học này đến nay vẫn dừng lại ở mức khái lược. Chưa nói đến các sách giáo
khoa bậc phổ thông.
Lí giải như thế nào về thực tế đó? Có nhiều nguyên nhân,
khách quan lẫn chủ quan.
Trước hết, những ai quan tâm đều dễ dàng thấy rằng cần phải
có một độ lùi lịch sử cần thiết cho việc nghiên cứu văn học sử và thể loại văn
học. Để hiểu biết thấu đáo chỗ đứng, cách nhìn của nhiều nhà văn trong quá
trình dài hoạt động sáng tạo của họ ngay trong lòng đô thị miền Nam trước 1975
với những diễn biến về chính trị - xã hội hết sức phức tạp, không thể một sớm
một chiều mà có được. Phải nhìn nhận, đánh giá sao cho khách quan, công bằng
tác động xã hội của những tác phẩm yêu nước, cách mạng trước những chiêu bài
văn hóa văn nghệ hết sức tinh vi, xảo quyệt cùng chính sách khủng bố, đàn áp
khốc liệt của chính quyền Sài Gòn. Phải xem xét sự tiếp nhận của độc giả như
thế nào trong mối tương quan với việc đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh yêu
nước, cách mạng trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ trong từng thời kì, cả sau khi
giai đoạn lịch sử đã trải qua. Bên cạnh những quan điểm thống nhất, tương đồng
trong giới nghiên cứu trước và sau 1975, vẫn còn có những chỗ khác nhau trong
cách nhìn nhận, đánh giá sự đóng góp của dòng văn học này trong dòng chảy chung
của văn học dân tộc. Chưa kể đến những khó khăn trong việc tìm kiếm, tập hợp
văn bản tác phẩm, công trình, tài liệu nghiên cứu...
Đó là một số nguyên nhân khiến văn học yêu nước trên văn đàn
công khai vùng đô thị miền Nam (1954 - 1975) vẫn chưa được đề cập đầy đủ trong
các công trình văn học sử. Nhìn lại quá trình hình thành, phát triển và thành
tựu của truyện ngắn, một thể loại chủ lực trong dòng văn học yêu nước đô thị
miền Nam giai đoạn đầu (1954 - 1965), sẽ giúp chúng ta có thêm cơ sở minh định
những đóng góp của dòng văn học này trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc.
2.
Thất bại trong việc gây ảnh hưởng đối với các chính sách của Pháp ở Đông Dương
kể từ năm 1950, Mĩ thấy Hiệp định Genève 1954 là cơ hội để hất cẳng lực lượng
Pháp còn lại ở miền Nam, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, thực hiện âm mưu
chiếm đóng lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của
họ ở Đông Nam Á.
Những năm từ 1954 đến 1959 là giai đoạn diễn ra cuộc “chiến
tranh một phía”. Ngay từ đầu, bên cạnh các sách lược về chính trị, quân sự,
kinh tế, chính quyền Mĩ và Ngô Đình Diệm đặc biệt chú ý tạo ra ở các vùng đô
thị miền Nam một thứ văn hóa chống cộng, văn hóa tâm lí chiến bằng nhiều hình
thức, được tô vẽ bằng nhiều ngôn từ khác nhau như “chủ nghĩa duy linh”, “chủ
nghĩa nhân vị”, “văn hóa Á Đông tính”, “văn hóa dân tộc tính”... nhằm gây nên
sự ảo tưởng về độc lập, tự do, phá hoại tinh thần yêu nước, đè bẹp ý chí đấu
tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân, biến cuộc chiến tranh chống ngoại
xâm thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa “cộng sản” và “quốc gia”. Bên cạnh
đó, hệ thống chính quyền miền Nam còn ra sức khủng bố, đàn áp các khuynh hướng
văn hóa, văn nghệ tiến bộ, đối lập. Sở Nghiên cứu Chính trị của Ngô Đình Nhu
nhanh chóng trấn áp những người tình nghi có hành vi lật đổ. Chỉ tính đến năm
1956, họ đã bỏ tù 20.000 người. Các “trung tâm cải huấn” chật ních người. Trên
văn đàn công khai, nhiều cây bút văn xuôi bị bắt trong mấy năm đầu như Dương Tử
Giang, Lý Văn Sâm, Thiếu Sơn, Tư Mã Việt, Tô Nguyệt Đình (cùng tháng 10/1955),
Lê Vĩnh Hòa (tháng 10/1958)... với tội danh “thân cộng”. Có người thoát được
trong cuộc nổi dậy phá khám (Tân Hiệp - Biên Hòa) tìm ra vùng giải phóng như Lý
Văn Sâm. Nhưng cũng có người hi sinh như Dương Tử Giang. Thế nhưng, bất chấp sự
đàn áp khốc liệt của chính quyền, trong các vùng đô thị miền Nam, ở đâu cũng
dấy lên phong trào đấu tranh đòi Mĩ - Diệm thi hành Hiệp định Genève, đòi dân
sinh dân chủ, đòi bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Trong không khí hết sức ngột ngạt và trong hoàn cảnh cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam còn tạm ở vào thế thủ về chiến thuật, cùng với
thơ, nhiều truyện ngắn của Lý Văn Sâm (Bách Thảo Sương), Lê Vĩnh Hòa, Viễn
Phương (Ánh Phương), Văn Phụng Mỹ (Trang Thế Hy), Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Vũ
Hạnh, Lê Văn (Vĩnh Điền), Kiêm Minh, Thẩm Thệ Hà, Ngọc Linh, Lê Hoàng, Nhất
Tiếu (Hòa Lạc), Tiêu Kim Thủy (Tô Nguyệt Đình, Nguyễn Bảo Hóa, Thanh Tuyền),
Hoàng Văn... đã khéo léo tố cáo sự bất công, tàn bạo, những mâu thuẫn xã hội,
phơi bày những nỗi cơ cực của người dân lao động, khơi dậy lòng yêu nước, sự
căm ghét chiến tranh xâm lược, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, bày
tỏ nguyện vọng thiêng liêng thống nhất đất nước của nhân dân ta. Nhiều tập
truyện ngắn hay ra mắt bạn đọc bởi các nhà xuất bản: Trùng Dương, Văn hữu Á Châu, Ban Mai, Lá Dâu,
Sóng Mới, như Biển cỏ miền Tây - Sơn Nam (1956), Chiếc áo thiên thanh
- Lê Vĩnh Hòa, Viễn
Phương, Tiêu Kim Thủy, Ngọc Linh (1957), Hoài cố nhân - Võ Hồng (1959)...
Hàng loạt truyện ngắn hấp dẫn, có tác động mạnh mẽ đến tình cảm, tâm hồn được
độc giả đô thị nồng nhiệt đón nhận như: Chuông rung trên tháp đổ của
Bách Thảo Sương; Mặt trời lên của Lý Văn Sâm; Mái trường sương nắng
rêu phong của Thanh Trúc; Chiếc áo thiên thanh, Lúc chiều xuống, Mưa rơi
trên sông, Áo vải tim vàng của Lê Vĩnh Hòa; Bức tranh không bán, Vừng
trăng bên kia sông, Người chị áo xanh của Văn Phụng Mỹ (Trang Thế Hy); Lão
Triệu, Tơ vương đến thác, Sắc lụa Trữ La của Viễn Phương; Con chim già
sói, Đảng cánh buồm đen, Bác vật xà bông của Sơn Nam; Hoa vông đỏ, Ảo
ảnh bờ tre của Bình Nguyên Lộc; Mặt rỗ hoa mè của Tô Nguyệt Đình; Chuột
cù phiêu lưu, Ba trâu ba cột của Thanh Tuyền; Bông Cốc anh lính Bắc Phi
của Tô Kim Thủy; Bà mẹ Mỹ Tho của Kiêm Minh; Cô gái Cầu Đúc, Bác Quản
Nhì của Lê Văn; Hai chậu lan Tố Tâm của Phan Du; Giọt nước mắt
trên dương cầm của Vũ Hạnh; Trăng rằm vẫn đẹp của Giang Châu; Tôi
không bóc phẩn nữa! của Thiên Giang; Người em ngày trước của Hòa Lạc;
Hi sinh của Hoàng Văn; Chuyện cái đồng hồ con ngựa của Lê Thanh
Thái; Nắng lên của Nguyễn Lê; Những bước đường của Huỳnh Song
Tuyến... Nhiều tuần báo, tạp chí, tạp san, tuần san, nguyệt san, bán nguyệt san
yêu nước tiến bộ ở các đô thị, nhất là đô thị trung tâm Sài Gòn, đã công khai
đăng tải các sáng tác của các nhà văn trên như Công Lý (Chủ nhiệm Phùng
Thị Bút), Hừng Sáng (Nguyễn Linh Chiểu), Duy Tân (Huyền Nhi), Điện
Báo (Minh Cảnh), Gió Mới (Trần Văn Sơn), Tân Dân (Nguyễn Đắc
Lộc), Nắng Sớm (Nguyễn Thị Mỹ Dung), Vui Sống (Tô Văn Tuấn)... kể
cả các tờ báo mà khuynh hướng chính trị không hẳn hoàn toàn tích cực như bán
nguyệt san Bách Khoa (Huỳnh Văn Lang), nhật báo Thần Chung, nhật
báo Tiếng Chuông (Đinh Văn Khai)... Nổi bật hơn cả là hoạt động của tuần
báo Nhân Loại bộ mới có mặt từ tháng 8/1955 với khuynh hướng
“Tươi đẹp - Trẻ trung - Lành mạnh” xuất bản mỗi sáng thứ Bảy, Chủ nhiệm Anh Đào
(Hoàng Kim Dung), đã qui tụ được rất nhiều cây bút yêu nước lúc bấy giờ. Những
nhà văn như Văn Phụng Mỹ, Viễn Phương, Lê Vĩnh Hòa, Sơn Nam, Tiêu Kim Thủy…
từng là cây bút chủ lực của tờ báo này.
Thắng lợi của những cuộc đồng khởi từng phần cuối năm 1959
đầu năm 1960 đã chứng tỏ lòng căm thù sục sôi của quần chúng và sự suy yếu, bất
lực của bộ máy chính quyền Ngô Đình Diệm ở nông thôn. Ngày 20/12/1960, Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập nhằm tập hợp và lãnh đạo
đông đảo lực lượng yêu nước đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Mĩ tiếp
tục đưa cố vấn và vũ khí vào mong vực dậy tinh thần của chính quyền này. Hệ
thống ấp chiến lược dựng lên với âm mưu cắt đứt quan hệ giữa nhân dân với lực
lượng vũ trang cách mạng. Ở đô thị, đội ngũ nhà văn thân chính cùng với văn hóa,
văn nghệ nô dịch được tăng cường. Chế độ kiểm duyệt hết sức gắt gao áp đặt với
mọi loại ấn phẩm. Nhiều tòa soạn báo bị đóng cửa hay tạm đình bản chỉ sau một
thời gian hoạt động không dài (Công Lý, Hừng Sáng, Duy Tân, Nhân Loại bộ
mới, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Gọi Đàn, Mã Thượng...). Nhiều nhà văn bị chính
quyền Ngô Đình Diệm bắt giam (Viễn Phương, Sơn Nam, Vũ Hạnh...). Không ít người
thoát tù, rời đô thị ra vùng giải phóng (Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương...). Khuynh
hướng văn học yêu nước, cách mạng vùng đô thị miền Nam gặp khó khăn trước những
chiến dịch càn quét lớn. Nhưng phong trào chống Mĩ - Diệm những năm 1960 - 1963
vẫn phát triển rất mạnh nhờ vận dụng phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn.
“Quốc sách” ấp chiến lược bị phá. Từ nông thôn, phong trào quần chúng nổi dậy
nhanh chóng lan vào các đô thị, đặc biệt ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà
Nẵng, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ; các tỉnh như Quảng Trị, Cà Mau... Những cuộc bãi
công của công nhân, bãi thị của chị em tiểu thương, đấu tranh của thương phế
binh, của đồng bào phật tử... liên tục nổ ra. Phản ứng của chính quyền Ngô Đình
Diệm chỉ càng làm cho phong trào bùng lên mạnh mẽ. Chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” của Mĩ đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn.
Để xoa dịu sự phẫn nộ của quần chúng, cứu vãn tình hình, Mĩ
mưu toan để quân đội thực hiện đảo chính lật đổ chế độ độc tài Diệm - Nhu
(01/11/1963). Nhưng liên tiếp hai năm sau đó, chính quyền Sài Gòn rơi vào tình
trạng khủng hoảng triền miên. Hơn mười cuộc đảo chính và phản đảo chính nối
tiếp nhau. Nhiều tập đoàn chính trị vừa dựng lên đã đổ ngay xuống, càng khoét
sâu mâu thuẫn nội bộ. Giữa năm 1965, Mĩ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, tiến hành
“chiến tranh cục bộ”. Cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước chuyển sang một giai đoạn mới.
Truyện ngắn yêu nước vùng đô thị miền Nam sau thời gian tạm
lắng đã khơi sắc và phát triển mạnh mẽ, nhất là từ cuối năm 1963 trở đi. Vài tờ
báo chí tiến bộ có mặt trở lại nhưng chỉ được một thời gian ngắn như Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, Công Lý. Bên cạnh số khác lần đầu ra mắt bạn đọc như các
tuần báo Hồn Trẻ (Chủ nhiệm Nguyễn Văn Hoanh - Bùi Chánh Thời), Tiểu
Thuyết Thứ Năm (Nguyễn Thị Loan), Nắng Mới (Lê Văn Nghiêm), các bán
nguyệt san Mai (Hoàng Minh Tuynh), Văn (Nguyễn Đình Vượng)1
đã kịp thời đăng tải những truyện ngắn mới nhất của nhiều nhà văn. Với số lượng
hơn hẳn thời kì trước đó, các nhà xuất bản Giao Điểm, Cảo Thơm, Phù Sa, Thời
Mới, Hữu Nghị, Lá Bối, Bến Nghé, Việt Hương, Nam Chi Tùng Thư... đã góp sức cho
sự ra đời của hàng loạt tập truyện như: Ký thác (1960), Mưa thu nhớ
tằm (1965) của Bình Nguyên Lộc; Vượt thác (1963), Mùa xuân trên đỉnh non cao
(1964), Chất ngọc (1964)
của Vũ Hạnh; Hương rừng Cà Mau (1962), Vọc nước giỡn trăng (1965),
Hai cõi U Minh (1965) của Sơn Nam; Lá vẫn xanh (1962), Vết hằn
năm tháng (1965) của Võ Hồng; Một lá thư tình (1963) của Vân Trang...
Độc giả thành thị còn đọc được những truyện ngắn hay trên báo chí như Thiếu
nữ trong rừng đêm của Cấn Huy Tăng (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số
16/1960); Ai nghe lòng đất quặn đau của Thẩm Thệ Hà (Tiểu Thuyết Thứ
Bảy, số 11/1961); Hương máu, Dịch cát, Khóc đầu tri kỉ của Nguyễn
Văn Xuân (Bách Khoa các số 91, 93, 95/1960); Bàn tay kẻ đói của
Phan Du (Bách Khoa, số 99/1961); Quê chồng của Vân Trang (Mai,
số 3/1960); Gốc đại thọ của Vũ Nghi (Mai, số 18/1961); Pá Phao
của Trần Hồ (Mai, số 18/1961); Lòng vàng của Thạch Hà (Mai,
số 31/1961); Con thằn lằn của Vũ Hạnh (Văn, số 3/1964); Hai
cha con, hai lằn mức của Mạc Trần Phong (Công Lý bộ mới, số 2 và
3/1964); 200 đồng bạc nợ của Thanh Kỳ (Công Lý bộ mới, số
12 và 13/1964); Gà và ba tôi, Mẹ và em của Võ Hồng (Văn số
4, số 16/1964)...
Như vậy, truyện ngắn dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam (1954
– 1965) đã hình thành và phát triển liên tục, mạnh mẽ (tuy có khoảng thời gian
ngắn thoái trào cuối 1957 và sau 1960) trong một giai đoạn lịch sử - xã hội
nhiều biến động và phức tạp. Đó là giai đoạn từ khi đất nước bị chia cắt, đến
khi chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung, chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng
khủng hoảng triền miên, trước khi quân viễn chinh Mĩ lần lượt đổ vào miền Nam,
tình thế đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước chuyển sang một giai đoạn
khác trước.
Là sản phẩm tinh thần của phong trào đấu tranh, truyện ngắn dòng
văn học yêu nước đô thị miền Nam được viết ra bởi ngòi bút của những nhà văn trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia các phong trào yêu nước, cách mạng. Theo thời gian,
lực lượng sáng tác ngày càng được qui tụ đông đảo, phong phú và đa dạng. Họ gắn
bó với nhau trong một trận tuyến đấu tranh vì sự nghiệp chung của dân tộc. Sau
năm 1954, có khá nhiều nhà văn ở lại vùng đô thị miền Nam theo gia đình, hay do
sự phân công của tổ chức như Lý Văn Sâm, Viễn Phương, Lưu Nghi, Vũ Hạnh, Lê
Vĩnh Hòa, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Thẩm Thệ Hà, Lê Văn, Kiêm
Minh, Tiêu Kim Thủy... Số khác là giới trí thức yêu nước ở vào tình thế mâu
thuẫn dân tộc đang diễn ra căng thẳng, bằng ngòi bút họ đã thể hiện một thái độ
chính trị đúng đắn là chấp nhận đương đầu với cường quyền bạo lực như Nguyễn
Văn Xuân, Võ Hồng.... Tùy thuộc vào diễn biến của tình thế đấu tranh, các nhà
văn đã đứng trên lập trường dân tộc, lập trường cách mạng để khơi dậy lòng yêu
nước, hoặc sát cánh cùng nhân dân đô thị trong cuộc đấu tranh đó. Để đảm bảo an
toàn cho bản thân và tổ chức, họ vừa viết vừa tìm mọi biện pháp để “lách” qua
lưỡi kéo kiểm duyệt, “chế độ Hốt - Cắt - Đục” (từ Nguyễn Ngọc Lan) gắt gao,
cùng với sự theo dõi, khủng bố, đàn áp tàn bạo của chính quyền Sài Gòn. Thực tế
cho thấy, không phải mọi cây bút đều một mạch thẳng tiến trên con đường tranh
đấu đầy chông gai, và không phải cây bút nào cũng khởi đầu bằng ý thức đấu
tranh. Có người, có lúc, do tác động của cường quyền và sự chi phối của sinh kế
mà dao động, chệch hướng. Phan Du với tập truyện ngắn Cô gái xóm nghèo
(Văn hóa Á Châu, Sài Gòn, 1959) là một thí dụ. Nhưng ông đã kịp thức tỉnh.
Không ít người trước thực trạng xã hội bất công, tàn bạo đã suy nghĩ, trăn trở
và dũng cảm chọn cho mình một hướng đi đúng đắn là “tìm về dân tộc”...
Truyện ngắn trong dòng văn học yêu
nước đô thị miền Nam (1954 –1965) đã gắn bó chặt chẽ và phản ánh chân thực,
sinh động phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân các đô thị miền Nam vì mục
tiêu hòa bình, độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Yêu nước, từ xa xưa đã là cơ sở tư
tưởng, tình cảm của nền văn học dân tộc. Tư tưởng yêu nước, lập trường dân tộc
từng là cội nguồn của những giá trị tinh thần lớn lao của nhân dân ta. Những
giá trị tinh thần ấy tùy vào sự biến đổi thăng trầm của lịch sử - xã hội, thời
đại mà có sự thể hiện và kết tinh phù hợp. Làm thế nào có thể viết và phổ biến
những sáng tác của mình trong hoàn cảnh ngột ngạt của cuộc đấu tranh không cân
sức? Các nhà văn yêu nước trong vùng đô thị miền Nam đã chọn và triệt để khai
thác lối viết biểu tượng hai mặt “lòng đỏ vỏ xanh” khi đề cập đến những vấn đề
liên quan đến thực tại xã hội, qua đó khơi dậy tình cảm yêu nước, tinh thần dân
tộc. Viễn Phương, Vũ Hạnh, Tô Nguyệt Đình, Văn Phụng Mỹ, Lê Vĩnh Hòa... là
những nhà văn tiêu biểu cho bút pháp này.
Ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập chế độ
“Cộng hòa Việt Nam” ở miền Nam Việt Nam. Đứng trước âm mưu chia cắt lâu dài đất
nước ta, hơn bao giờ hết, đấu tranh cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là
khát vọng lớn lao, là tâm niệm thiêng liêng của mọi người Việt Nam yêu nước và
là nguồn cảm hứng lớn lao trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn
lúc này. Bằng câu chuyện mang màu sắc dã sử Trung Hoa, Viễn Phương mộc mạc kể
lại nỗi đau khổ dằn vặt của gái trai, dân chúng hai châu Yên Ba và Phượng Dương
bên bờ suối Mịch La từng gắn bó thân thiết nhau, qua đó kín đáo nói lên nguyện
vọng thống nhất của nhân dân hai miền Nam - Bắc (Tình Yên Phượng - Nhân
Loại số 12, 7/1956). Văn Phụng Mỹ có cách nói khác qua câu chuyện tình cảm
đời thường trong sáng giữa Phụng và Dung. Chính sự thân thiết gắn bó trở lại
của người lớn hai gia đình đã kịp thời nối lại tình thân đôi trẻ (Vừng trăng
bên kia sông - Nhân Loại số 70, 6/9/1957). Mang bóng dáng của một câu
chuyện lịch sử, Linh Hà lại kể về mối bất hòa đã được giải tỏa, khu rừng mỏng
ngăn cách không còn, thay vào đó là sự vươn lên của những đọt trà xanh mơn mởn
kết chặt tình mật thiết giữa hai thôn trà ngon nổi tiếng Yên Phụ và Yên Chi (Hương
trà Yên Phụ - Nhân Loại số 42, 23/02 - 01/3/1957).
Nhiều truyện tố cáo chế độ thống trị tàn bạo (Úp nôm hồi
vọng - Hoài Nghĩa, Tết giữa rừng - Vũ Hạnh), ca ngợi tình nghĩa Bắc
Nam (Bên rặng tre già - Lê Vĩnh Hòa), tố cáo tội ác bọn giặc xâm lược (Mưa
muộn - Lê Vĩnh Hòa, Con chim già sói - Sơn Nam, Người liệm xác
- Phong Sơn, Tuổi thơ - Lê Hoàng, Nắng lên - Nguyễn Lê), nêu cao
sự hi sinh cao cả, tình yêu thương giống nòi (Hi sinh, Người Việt đất
Việt - Hoàng Văn) lần lượt xuất hiện trên báo chí tiến bộ, vượt qua cặp mắt
săm soi nghiệt ngã của chính quyền.
Sự thống trị của chế độ Ngô Đình Diệm đã gây ra biết bao
thảm cảnh cho nhân dân miền Nam. Truyện ngắn Lúc chiều xuống của Lê Vĩnh
Hòa (Nhân Loại số 32, 30/11/1956-07/12/1956)2 xúc động người
đọc về hình ảnh người công nhân khuân vác Ba Nhỏ trong những ngày giáp Tết đang
bệnh nặng cũng phải gượng dậy, bước đi trong một thế giới xa lạ giữa những tà
áo màu và xe hơi bóng loáng. Do quá gắng sức, anh đã ho ra máu. Song, những
bước chân xiêu vẹo của anh vẫn không thể dừng lại được khi chập chờn trước mắt
là hình ảnh gia đình với vợ ốm, con đau! Bằng lối viết biểu tượng hai mặt, Úp
nôm hồi vọng của Hoài Nghĩa (Nhân Loại số 42, 23/02 - 01/3/1957) đã
phản ánh cuộc mưu sinh của những gia đình nông dân lương thiện nghèo khổ, bế
tắc, mất hết cả tự do, chỉ vì muốn cải thiện bữa ăn mà phải vĩnh viễn nằm xuống
dưới làn đạn của những tên lính lê dương. Cũng với cách viết mượn xa để nói gần
như thế, người đọc sung sướng nhận ra ý nghĩa thâm thúy trong câu nói triết lí
của tên cướp với hai cậu cháu đi lạc, trong truyện ngắn Tết giữa rừng (tập
Vượt thác, 1963) của Vũ Hạnh: “Thực ra sống trong bọn người tự hào là
lương thiện như cha con ngươi mới thường xuyên bị mất cướp, còn sống ở trong
bọn cướp là chúng ta đây, mới thực an toàn”3.
Chủ đề chống chiến tranh xâm lược, chống cường quyền bạo lực
còn tìm thấy trong nhiều truyện ngắn khác của Viễn Phương (Nghiệp vương
nghiệp bá, Võ An Quân)4, Tiêu Kim Thủy (Ba Viên),
Trang Thế Hy (Người chị áo xanh), Linh Hà (Chuyến đò cuối năm),
Võ Hồng (Gà và ba tôi)5... Không ít truyện đề cập đến tình
cảm thủy chung, lòng trung thành với lí tưởng yêu nước cao đẹp, qua đó nhắc nhở
giữ gìn phẩm chất kiên trung của người cách mạng dù phải trải qua gian khổ, hi
sinh (Mấy giòng thư cũ - Văn Phụng Mỹ, Lòng tôi như hoa hướng dương
- Viễn Phương, Những kẻ bán nước - Lưu Nghi).
Nhằm cắt đứt mối quan hệ giữa nhân dân với các lực lượng vũ
trang cách mạng, tách quân với dân, cá với nước, từ năm 1961, chính quyền Sài
Gòn đã nỗ lực thực hiện cái gọi là “quốc sách” ấp chiến lược ở vùng nông thôn.
Viết Gốc đại thọ (Mai số 18, 25/3/1961), Chấm nhang đầu xóm
(Nhân Loại số 12, 15/4/1959), Vũ Nghi đã kín đáo bày tỏ sự đồng cảm,
khẳng định tấm lòng của những người dân bình thường (Cả Hạp, Hai Tạc) không
muốn rời xa mảnh đất quê hương, ngôi nhà đầm ấm thân yêu từng lưu giữ biết bao
kỉ niệm của gia đình. Nhìn ngôi nhà bị giặc triệt phá chỉ còn là đống gạch ngói
vụn, Cả Hạp đau đến liệt giường, liệt chiếu, năm hôm thì lìa đời: “Mắt ông
lão trừng trừng nhìn lên đêm tối dày đặc bên ngoài, cố tìm trong không gian
lặng lẽ, một điều gì để giải niềm u uất chưa nguôi” (Gốc đại thọ -
Vũ Nghi). Câu nói của ông Hai Tạc trước khi tạm rời ngôi nhà của mình đi lánh
giặc thật sâu nặng nghĩa tình: “Nhà mình là đầu xóm, phải làm gương cho lối
xóm. Phải giữ một chút đèn nhang nơi đây cho vong linh con cùng những kẻ chết
vì quê hương chẳng tủi lòng” (Chấm nhang đầu xóm - Vũ Nghi). Đau
đớn, uất hận hơn, là cái chết không toàn thây của những người dân lương thiện
được miêu tả trong truyện ngắn Pá-Phao của Trần Hồ (Mai, số 18,
25/3/1961). Dù sống cực khổ, không ai trong họ lại muốn bỏ làng ra đi. Nhưng ở
cũng không yên. Bọn Tây về làng cướp bóc, bắn giết, đốt sạch nhà cửa. Pá-Keo
van lạy đã bị báng súng của chúng nện vào cổ, chết. Pi-Keo vùng chạy đến toan
ôm xác chồng thì bị tên Tây đen chụp cổ lôi đi, mặc cho Pi vùng vẫy. Và người
đàn bà xinh xắn nhất Vìn-Pêẹc ấy đã chết trong tình trạng “nằm trần truồng
dưới đất. Một nhát dao rạch toang làn da bụng trắng, ruột nghiêng ra đổ xuống
đất; bốn năm lổ thủng trên ngực còn rỏ từng giọt máu lên hơi. Mắt Pi trợn trừng
trừng, môi mím chặt, đau đớn và uất hận”...
Làm cho li gián, ngờ vực lẫn nhau trong hàng ngũ những người
yêu nước luôn là sách lược đối phó của kẻ xâm lược. Bởi chúng rất sợ sức mạnh
đoàn kết của nhân dân. Chiếc cáng điều của Nguyễn Văn Xuân (Mai,
số 2, 25/7/1960)6 nói đến cái chết của cụ Tán vì sự đa nghi của cụ
Hường, trong bối cảnh phong trào Cần Vương kháng Pháp ở Quảng Nam cuối thế kỉ
XIX. Dụng ý của câu chuyện về đề tài lịch sử ấy khá rõ. Cũng với cách mượn xưa
để nói nay, Ngày mưa đầu mùa (tập Hương rừng Cà Mau, 1962)7
của Sơn Nam đã khéo léo vạch trần âm mưu trên, dù thời gian là năm 1946, không
gian là làng Đông Yên nào đó ở miền Tây Nam Bộ. Ở truyện Ba con cáo (tập
Kí thác, 1960)8, Bình Nguyên Lộc lại phản ánh thực trạng xã
hội miền Nam không thiếu những kẻ “vơi cạn hết chất người”, phản bội
nhau để sống. Trong hoàn cảnh gay go, quyết liệt của cuộc đấu tranh chống Mĩ và
chính quyền Sài Gòn, giữ gìn “chất ngọc tượng trưng cho sự kiên quyết bảo vệ
lẽ phải và lòng thiết tha yêu mến nhân dân”9 là vô cùng quan
trọng, trong cái nhìn của Vũ Hạnh. Điều đó có một sức mạnh cổ vũ thật lớn lao
đối với các lực lượng yêu nước tham gia đấu tranh lúc bấy giờ. Chất ngọc
là truyện ngắn vừa mang màu sắc huyền thoại, vừa có ý nghĩa biểu tượng, tượng
trưng đã xây dựng thật ấn tượng nhân vật Sầm Hiệu không khuất phục cường quyền,
dù chết cũng khẳng định quyết tâm: “Nay quan hại dân, thì quan là đồ phản
tặc, ta quyết chống lại”10. Cái chết của Sầm Hiệu dưới lưỡi gươm
bạo tàn của quan Tổng trấn Trầm Chính Hiệp chỉ là sự vỡ tan của khối ngọc lưu
ly. Nhưng sự vỡ tan ấy đã mở ra chu trình phân thân và hóa thân diệu kì, khi
trăm muôn “mảnh hồng ngọc lưu ly lại có bóng hình Sầm Hiệu”11.
Và bao nhiêu mảnh ngọc ấy đã được truyền đi khắp dân gian. Chính nghĩa thuộc về
nhân dân. “Chất ngọc Sầm Hiệu” vĩnh viễn bất tử trong tâm hồn và tình cảm của nhân
dân!
Phục vụ chủ trương xây dựng một nền văn hóa thực dân kiểu
mới, ngụy dân tộc, chính quyền Sài Gòn bằng nhiều phương sách khác nhau đã kiên
trì tạo ra một đội ngũ nhà văn thân chính đông đảo: Kỳ Văn Nguyên, Đỗ Thúc
Vịnh, Võ Phiến, Chu Tử, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo...
Trước thực tế đó, điều tâm niệm của những nhà văn yêu nước là luôn xác định cho
mình một lập trường, quan điểm dân tộc đúng đắn, quyết không vì quyền lợi riêng
tư mà bẻ cong ngòi bút, hoặc ngây thơ dễ dàng bị lừa bịp, khuynh đảo. Cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực văn hóa bao giờ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài, cam go
và phức tạp. Là cơ sở cách mạng nội thành được cấp trên chỉ định “đóng vai
một người quốc gia có đôi chút tiến bộ”12 hoạt động đơn tuyến và
công khai chống văn hóa nô dịch giữa lòng đô thị Sài Gòn trước 1975, Vũ Hạnh
bằng hình tượng nghệ thuật đã đề cập những vấn đề trên qua truyện ngắn nổi
tiếng của mình: Bút máu 13. Tác phẩm có giá trị như một tuyên
ngôn nghệ thuật, lần đầu tiên ra đời trên văn đàn công khai miền Nam, đã đề cập
đến trách nhiệm nặng nề của người cầm bút chân chính trước vận mệnh của đất
nước và cuộc sống của nhân dân.
Truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam (1954
– 1965) còn phê phán những tác hại của lối sống thực dụng chạy theo lợi ích vật
chất; những tư tưởng tiêu cực, lệ thuộc, vọng ngoại, quay lưng với truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Sắc lụa Trữ La của Ánh Phương (bút danh khác của
Viễn Phương) đăng trên Nhân Loại số 40, tháng 2/1957, đã kịp thời đả phá
chủ trương của chính quyền miền Nam ào ạt đưa hàng hóa Mĩ vào, khiến nhiều ngành hàng nội hóa truyền thống bị phá
sản, điêu tàn. Vàng tháp Hời của Vũ Hạnh là câu chuyện về lòng
tham của con người trong cuộc tìm vàng ở khu tháp cổ Đồng Dương (Thăng Bình -
Quảng Nam). Nhưng vàng ngọc đâu chẳng thấy, rốt cuộc “chỉ là gạch vụn hoang
tàn (...) chỉ là hố sâu chen chúc những loài cỏ dại” 14. Ra đời
trong phong trào đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ văn hóa dân tộc trước sự xâm lăng
ồ ạt của văn hóa ngoại lai, những truyện ngắn trên đã có tác động lớn lao đối với
xã hội miền Nam lúc bấy giờ. Nó thật sự là tiếng nói tố cáo, là lời cảm thông,
kêu gọi, động viên, cổ vũ các tầng lớp nhân dân vùng đô thị miền Nam đứng lên,
là vũ khí, công cụ đấu tranh xã hội hiệu quả trên trận tuyến văn học nghệ
thuật. Chính cảm hứng yêu nước và tinh thần dân tộc đã tạo nên sức mạnh lôi
cuốn của thể loại. Nhiều tác phẩm đạt được chất lượng nghệ thuật cao và khá
cao, vượt qua qui luật sàng lọc nghiệt ngã của thời gian để tồn tại. Một số tập
truyện đã được tái bản, trước và sau khi đất nước thống nhất.
Do phải sáng tác trong hoàn cảnh hết sức ngột ngạt, luôn bị
theo dõi, truy bức, nhất là những người từng là cán bộ kháng chiến cũ thời chống
Pháp, gia đình có người thân tập kết ra Bắc, hay bản thân nhiều lần vào tù ra
khám vì bị qui có tư tưởng chống đối, là “phần tử thân cộng”,… các nhà văn yêu
nước thường chọn lối viết biểu tượng hai mặt. Đó là dùng xa để chỉ gần, mượn
xưa để nói nay, tạo dựng bối cảnh lịch sử, giả sử, thần tiên, ma quái, sử dụng các
biện pháp ẩn dụ, biểu tượng, tượng trưng để vượt qua chế độ kiểm duyệt gắt gao
nhằm khéo léo công kích vào chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ và bộ máy của chính
quyền Sài Gòn. Để nguỵ trang, Viễn Phương, Vũ Hạnh thường xây dựng những không
gian nghệ thuật xa lạ, cổ kính như châu Yên Ba, châu Phượng Dương, suối Mịch La
trong Tình Yên Phượng, suối Phượng, thác Đà Đao, Mai thôn trong Tiếng
trúc Tiêu Lang, Trữ La thôn trong Sắc lụa Trữ La, Kiết Lâm thôn,
Bạch đầu sơn trong Bạch đầu sơn, chùa Thông, dòng Linh Giang trong Oan
tình, Mân Châu, núi Hoa
Dương trong Bút máu, đất Hào Dương, thôn Trà Lý, núi Hào Sơn trong Chất
ngọc... Các nhà văn như Lê Vĩnh Hòa, Trang Thế Hy, Sơn Nam, Nguyễn Văn
Xuân, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng thường chọn không gian đời thường quen thuộc với
cuộc sống mình đã trải qua (nông thôn miền Tây hay miền Đông Nam Bộ, Trung Bộ,
các đô thị Sài Gòn, Nha Trang, Đà Lạt...). Không gian núi rừng Tây Nguyên, nơi
từng có thời gian gắn bó, được Vũ Hạnh khai thác trong khá nhiều truyện ngắn
đường rừng. Nhưng dù xây dựng không gian nào đi nữa, thời gian câu chuyện
thường là quá khứ, lắm khi xa xôi, hoặc chỉ có tính chất phiếm định. Có truyện
quay ngược đến thời thượng cổ (Nghiệp vương nghiệp bá), hay đời nhà Tần
(Bạch đầu sơn). Có truyện đề cập thời Đông Chu liệt quốc (Võ An Quân)…
Nhiều nhất là không gian thời kì kháng chiến chống Pháp. Song, để tăng tác dụng
tư tưởng - thẩm mĩ, các tác giả thường khi ít quan tâm đến thời điểm và không
gian cụ thể. Nhiều nhân vật có tính danh và thuộc các giai tầng khác nhau trong
xã hội phong kiến như Lương Sinh, Lý tiểu thơ, Tổng trấn họ Lý (Bút máu),
Sầm Hiệu, Chúc Anh, Lý Thiên Vương, Tổng trấn Trầm Chính Hiệp (Chất ngọc),
Hàng Phùng, Tức Thị, Tống Khương Vương (Tiếng trúc Tiêu Lang), Điền
Quân, Y Lang, Chúa công, Quốc vương, Tướng công (Sắc lụa Trữ La)... Khéo
léo qua mắt chính quyền Sài Gòn như thế, nhưng nhiều nhà văn đã không thoát
khỏi cảnh bắt bớ, giam cầm, tra tấn. Vũ Hạnh kể lại từ năm 1957 đến 1975, khi cộng tác với tạp chí Bách
Khoa, ông đã lần lượt vào tù cả thảy 4 lần15. Có truyện viết
xong nhà văn đành gác lại chưa thể đăng vì chiến dịch bố ráp rất “rát” của
chính quyền. Phần đầu truyện ngắn Con thằn lằn (1964), Vũ Hạnh có viết: “Đoản thiên này, tác giả đã viết
xong từ trước ngày cuộc khởi nghĩa 1 tháng 11 thành công (ý nói 01/11/1963 – P.T.H). Nhưng phải
đợi đến nay mới có hoàn cảnh thuận tiện để ra mắt bạn đọc” 16.
Lối hành văn, cách sử dụng ngôn từ phải sao cho phù hợp với
nội dung truyện: có sắc thái cổ kính, trang trọng (truyện lịch sử, truyện dã
sử); huyền thoại, hư huyễn (truyện thần tiên, ma quái, truyện dã sử, truyện
đường rừng); mộc mạc, chất phác (truyện về nông thôn đồng bằng, miền núi); trau
chuốt, bóng bẩy (truyện viết về xã hội thị thành, truyện tình cảm, tâm tình)...
Và cũng tùy thuộc vào phong cách của mỗi nhà văn: Viễn Phương thiên về lối viết
mộc mạc, chân tình; Vũ Hạnh thường chọn cách viết trang trọng, cổ kính, câu văn
xuôi pha biền ngẫu; Sơn Nam có lối viết thẳng tuột, giản dị, bình dân; Bình
Nguyên Lộc với câu văn nhiều giọng điệu, dung dị, đậm chất tùy bút; Lê Vĩnh Hòa
ngắn gọn, trong sáng, thường kết hợp trữ tình và trào lộng; Võ Hồng tinh tế,
trau chuốt; Nguyễn Văn Xuân tâm huyết, trầm tĩnh, giàu cảm hứng lịch sử; Trang
Thế Hy thiết tha, lắng đọng.... Giọng kể nhìn chung đa dạng, hiện đại. Tùy
thuộc vào cốt truyện, kết cấu truyện mà nhà văn chọn điểm nhìn trần thuật theo tác
giả hoặc nhân vật, có kết hợp đối thoại với độc thoại nội tâm, đôi khi có cả
lời của độc giả do nhà văn dự kiến, những đoạn trữ tình ngoại đề của người kể đan
xen vào câu chuyện...
3. Tóm
lại, truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô thị miền Nam (1954 – 1965) đã
hình thành và phát triển liên tục, mạnh mẽ (tuy có lúc thoái trào) trong một
giai đoạn lịch sử - xã hội nhiều biến động và phức tạp. Đó là giai đoạn từ khi
đất nước bị chia cắt đến trước khi quân viễn chinh Mĩ ồ ạt đổ vào miền Nam Việt
Nam, tình thế đấu tranh cách mạng của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn khác.
Trong hơn mười năm ấy và cả những năm sau đó, Mĩ và chính quyền Sài Gòn do họ
dựng lên đã thực thi chính sách thống trị tàn bạo về mọi phương diện nhằm hiện
thực hóa mưu đồ xâm lược, chiếm đóng lâu dài miền Nam, phá hoại ý chí chiến
đấu, làm tiêu tan nguyện vọng độc lập và thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Bất chấp sự khủng bố, đàn áp của Mĩ và chính quyền Sài Gòn
trên mặt trận văn hóa văn nghệ, truyện ngắn vẫn liên tục được sáng tác bởi ngòi
bút của những nhà văn yêu nước, cách mạng, sát cánh cùng nhân dân đô thị trên
trận tuyến đấu tranh. Là một trong những sản phẩm tinh thần ra đời trong cuộc
đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn, truyện ngắn trong dòng văn học yêu
nước đô thị miền Nam (1954 –1965) chính là tiếng nói yêu nước chống ngoại xâm,
chống bạo lực, cường quyền thông qua hình tượng nghệ thuật của nhân dân các đô
thị miền Nam, vì mục tiêu hòa bình, độc lập và thống nhất Tổ quốc. Mục tiêu đấu
tranh ấy đã từng là tình cảm, khát vọng lớn lao, là tâm niệm thiêng liêng của
mọi người Việt Nam yêu nước và là nguồn cảm hứng dồi dào được thể hiện đậm nét,
liên tục trong những sáng tác của các nhà văn. Sức mạnh lôi cuốn, hấp dẫn người
đọc ở những truyện ngắn hay, chính là cảm hứng yêu nước và tinh thần dân tộc
dạt dào. Vượt qua qui luật sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, nhiều truyện
ngắn, tập truyện ngắn đến nay vẫn để lại ấn tượng sâu đậm trong tình cảm, tâm
hồn người đọc. Khá nhiều nhà văn đã khẳng định phong cách của mình và tiếp tục
có nhiều cống hiến trong giai đoạn sau.
Thực tiễn đời sống văn học đòi hỏi cần phải mạnh mẽ, cấp
bách hơn nữa trong việc nghiên cứu và đánh giá đúng mức sự đóng góp của dòng văn
học yêu nước trên văn đàn công khai vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 197517
nói riêng, văn học miền Nam nói chung, trong tiến trình lịch sử văn học dân
tộc. Trên tinh thần đó, bài viết về truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô
thị miền Nam (1954 - 1965) hi vọng góp một phần nhỏ giúp độc giả có thêm tài
liệu để tìm hiểu, nghiên cứu về dòng văn học này.
___________________
Chú thích:
1
Bán nguyệt san Văn, Quản nhiệm Nguyễn Đình Vượng, số 1 ra ngày
01/01/1964, không hẳn là tờ báo tiến bộ nhưng các tác giả như Vũ Hạnh, Võ Hồng,
Sơn Nam... lúc bấy giờ đều có đăng một số truyện ngắn của mình.
2
Xem thêm: Lê Vĩnh Hòa tuyển tập (1986), NXB Tổng hợp Hậu Giang - Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
3
Vũ Hạnh (2003), Vượt thác, NXB Trẻ - Báo Giáo dục - Sáng tạo, Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 44.
4
Các truyện ngắn của Viễn Phương đăng trên tuần báo Nhân Loại bộ mới
những năm 1956, 1957 (như Lão Triệu, Tơ vương đến thác, Tình Yên phượng,
Tiếng trúc Tiêu Lang, Nghiệp vương nghiệp bá, Oan tình, Bạch đầu sơn, Sắc lụa
Trữ La, Hương tình ma, Võ An Quân) đã được in lại trong tập truyện ngắn Sắc
lụa Trữ La, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
5
Xem thêm: Tuyển tập Võ Hồng (2003), NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh -
Trung tâm Nghiên cứu quốc học.
6
Xem thêm: Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân (2002), NXB Đà Nẵng.
7
Xem thêm: Sơn Nam (2004), Hương rừng Cà Mau, NXB Trẻ - Thành phố Hồ Chí
Minh.
8
Xem thêm: Tuyển tập Bình Nguyên Lộc I, II, III, IV (2002), NXB Văn học,
Thành phố Hồ Chí Minh.
9, 10, 11, 13 Vũ Hạnh (1964), Chất ngọc, NXB Cảo Thơm, Sài Gòn,
tr. 130, 125, 129, 9-30.
12, 15
Vũ Hạnh, Một chặng đường bút mực (hồi kí), bản đánh máy, tr. 1-2.
14 Vũ Hạnh (1964), Mùa xuân trên
đỉnh non cao, NXB Cảo Thơm, Sài Gòn, tr. 176.
16
Văn, số 3, ngày 01/02/1964, Sài Gòn, tr. 137-152.
17
Một số công trình tập hợp, nghiên cứu về dòng văn học này được đánh giá cao
như:
Nhiều tác giả (1986), Mùa xuân chim én bay về, NXB Cửu
Long.
Nhiều tác giả (1997), Văn học yêu nước tiến bộ – cách
mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn 1954 – 1975, NXB Văn nghệ – Hội Liên
hiệp Văn học nghệ thuật – Trung tâm Thông tin Triển lãm thuộc Sở Văn hóa Thông
tin Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí
văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập II: Văn học – Báo chí – Giáo dục), NXB Thành
phố Hồ Chí Minh.
Trần Thức (chủ biên) (2005), Viết trên đường
tranh đấu, NXB Thuận Hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét