TS.
Phạm Thanh Hùng[1]
1. Sơn Nam (1926 – 2008) là nhà văn hiện đại nổi tiếng của vùng đất Tây Nam Bộ, của Nam Bộ và của cả nước ta. Ông
đã sống một cuộc đời giản dị, thanh bạch và được nhiều người yêu mến gọi là
"ông già Nam Bộ", "ông già Ba Tri", “ông già đi bộ’,
"pho từ điển sống về miền Nam" hay "nhà Nam Bộ học".
Là một thanh niên yêu nước sớm tham
gia cách mạng, trong suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Sơn Nam đã
lăn lộn khắp rừng U Minh và vùng tứ giác Long Xuyên để vừa hoạt động, vừa sáng
tác. Năm 22 tuổi, ông trình làng tập thơ đầu tay Lúa reo (Hội Văn hóa kháng chiến Kiên Giang, 1948) với những bài
thơ thấm đậm “chất quê” của một vùng đồng bằng phù sa trù phú. Bốn năm sau, năm
1952, tập truyện vừa đầu tiên Bên rừng Cù
lao Dung đã nhận được giải Nhất Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long do Ủy ban
Kháng chiến hành chánh Nam Bộ tổ chức, và kí
sự Tây đầu đỏ được giải Nhì trên báo
Tiếng súng kháng địch.
Cũng
như nhiều người kháng chiến cũ ở lại miền Nam sau Hiệp định Genève 1954, chính
quyền Ngô Đình Diệm đã bắt giam ông vào cái gọi là Trung tâm cải huấn. Sau khi
trao trả tự do, Sơn Nam tham gia viết bài cho các tờ báo tiến bộ phát hành tại
Sài Gòn lúc bấy giờ như Nhân Loại, Công Lý, Ánh sáng, Lẽ Sống, Tiếng Chuông,... Ông thường chọn những
đề tài dã sử nhằm né tránh sự đàn áp cùng chính sách kiểm duyệt gắt gao của
chính quyền, mà vẫn bóng gió gửi gắm tình cảm yêu nước, ngợi ca phẩm chất anh
hùng, bất khuất của con người miền Nam và của cả dân tộc. Các khảo cứu về văn
hóa lúc này như: Chuyện xưa tích cũ, Tìm hiểu đất Hậu Giang, Nguyễn Trung Trực - người anh hùng dân chài đã
đến với độc giả. Năm 1960, ông lại bị bắt giam vào nhà tù Phú Lợi (Thủ Dầu Một,
Bình Dương). Đây cũng là thời gian manh nha cho sự ra đời tập truyện ngắn nổi
tiếng Hương rừng Cà Mau (1962). Ngoài
những tập truyện như Chim quyên xuống đất,
Biển cỏ miền Tây, Hình bóng cũ, Vạch một chân trời, Hai cõi U
Minh, Vọc nước giỡn trăng, Bà Chúa Hòn, Theo chân người tình, Xóm Bàu
Láng,… Sơn Nam đã để lại dấu ấn sâu đậm về mặt nghiên cứu lịch sử, địa lý,
văn hóa, xã hội của vùng đất Nam Bộ qua những tác phẩm như Bến Nghé xưa, Đất Gia Định xưa, Người Sài Gòn, Lịch sử khẩn hoang miền
Nam, Văn minh miệt vườn, Nghi thức lễ bái của người Việt xưa, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thiên Địa hội và cuộc Minh Tân, Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Người
Việt có dân tộc tính không?, Đồng bằng sông Cửu Long - nét sinh hoạt xưa, Đình
miếu và lễ hội dân gian, Lăng Ông Bà Chiểu và lễ hội văn hoá dân
gian, Cá tính miền Nam, Lịch sử đất An Giang,...
Hoà
bình, thống nhất đất nước, ông vẫn tiếp tục đi và cho ra đời nhiều truyện vừa
như: Ngôi nhà mặt tiền, Âm dương cách trở, Chuyện tình một người thường dân, Truyện ngắn của truyện ngắn,... ; những tập bút kí về Sài Gòn –
Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng đất Nam Bộ: Giới thiệu Sài Gòn xưa, Ấn
tượng 300 năm, Tiếp cận với Đồng bằng
sông Cửu Long; biên khảo Thuần phong
mĩ tục Việt Nam, tạp bút - tản văn Dạo
chơi tuổi già; cả bốn tập hồi ký: Từ
U Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9,
20 năm giữa lòng đô thị và Bình an.
2. Có dịp tiếp xúc với tác phẩm của Sơn
Nam, độc giả như được ông đưa ngược về quá khứ để đến thăm từng ấp, từng làng
của Nam Bộ xưa mà những người dân cố cựu như ông gọi là “Miệt Vườn”. Thật vậy,
từ thuở ban đầu thành lập Lục tỉnh, thành phố Sài Gòn trực thuộc tỉnh Gia Định.
Nhưng trải qua năm tháng, hai tỉnh Biên Hòa và Gia Định tách ra, Lục tỉnh từ đó
thật sự chỉ còn “Tứ tỉnh” nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (theo cách
gọi ngày nay), được gọi chung là Miền
Tây hoặc Miệt Vườn. Chính
Sơn Nam đã viết về Miệt Vườn
như sau: “Trước năm 1945 và có lẽ trước năm 1960, người địa phương không gọi
“Đồng bằng sông Cửu Long” mà gọi là Miệt Vườn, với câu hát khá phổ biến: Mẹ
mong gả thiếp về vườn/ Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh… ”(1).
Ở đó có những cái tên vừa đậm
chất Nam Bộ vừa mang âm hưởng Cao Miên như Cà Bây Ngọp, Chắc Cà Đao, Chắc Băng,
Láng Thé, Lấp Vò, Man Thít, Mo So, Soài Rạp, Tà Lơn, Thốt Nốt, … và hàng loạt
những địa danh “bí hiểm” như Tắt Ổ Cu, Tắt Ăn Chè, Tắt Quanh Queo, Trà Ết, Trà
Lồng, Trà Niền,… khiến người đọc tưởng chừng như lạc vào một thế giới nào đó. Rất
nhiều cái tên khác cũng ấn tượng không kém về sự hoang dã, tự nhiên: Ba Giồng, Ba Láng, Bãi Xàu, Bàu Láng, Bảy
Ngàn, Bò Ót, Cái Bè, Cái Côn, Cạnh Đền, Cát Lái, Cần Chông, Cổ Cò, Cổ Tron, Cù
Lao Cát, Cù Lao Dung, Đầu Sấu, Giồng Ông Tố, Giồng Tháp, Gò Găng, Gò Quao, Hòn
Chông, Hòn Đất, Lai Vung, Lung Tràm, Rạch Bần, Rạch Tre, Sáu Ngàn, Tràm Cừa,
Tràm Trốc, U Minh,... Hãy nghe nhà văn giải thích về cái tên ấp Cà Bây
Ngọp trong truyện ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư : “Xứ Cà Bây
Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là
trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp, trâu
chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bệnh hoạn, thưa thớt,
làng này chưa cất nổi cái trường học” (tập Hương rừng Cà Mau). Qua câu chuyện về xứ Cà Bây Ngọp, người đọc có
dịp biết đến từ “len” trâu, và Mùa len trâu là tên một truyện ngắn
hay của Sơn Nam đã được dựng thành phim bởi đạo diễn trẻ Nguyễn Võ
Nghiêm Minh, đạt nhiều giải thưởng quốc tế. Có lần ông giải thích về từ ấy như
sau: “"Len" trong tiếng Khmer
có nghĩa là đi tự do, "len trâu" có nghĩa là cho trâu đi tự do. Ở
đây nước lụt, nước lụt từ 1m đến 4m. Người ta ở nơi lụt, người
ta không có chỗ ở là phải, và trâu cũng không có chỗ ở. Cho nên nó phải đi đến
những vùng đất cao để có cỏ cho nó ăn (…). Có khi đến ba bốn tháng mới đưa trâu
về” (2).
Ngòi bút Sơn Nam
còn làm sống lại một cách sinh động nhiều mặt đời sống quá khứ vài trăm năm
trước của vùng đất phương Nam, từ chuyện khẩn hoang, chuyện thời Đàng Cựu,
chuyện tranh chấp thế lực trong thời kì Trịnh - Nguyễn, chuyện Gia Long bôn tẩu,
chuyện Tây Sơn vào Nam dẹp giặc Xiêm, đánh Nguyễn Ánh, chuyện đấu tranh thời
thực dân giữa ta và Tây; đến lai lịch của từng vùng đất cụ thể như Sài Gòn, Gia
Định, An Giang, Hà Tiên, Cần Thơ, Hậu Giang,..; rồi chuyện kháng chiến; chuyện
hơn thua tranh chấp đặc quyền giữa những gia đình, cá nhân; đan xen những
chuyện xưa là những chuyện gần đây, trước và sau những năm đất nước thống nhất;
chuyện sinh hoạt, giải trí; chuyện quan hệ yêu đương, tình cảm gia đình, xã
hội; các loại hình ca cổ, hò hát đối đáp, đưa em, huê tình, nói thơ, nói
truyện,... Rõ ràng, những năm tháng sống chan hoà, chịu khó đi nhiều, khéo nắm
bắt, học hỏi và tra cứu, Sơn Nam mới có được một vốn sống cực kì phong phú như
vậy. Đọc tác phẩm của ông, người đọc như được tiếp xúc với những người dân Nam
Bộ đủ thành phần, hạng người, nghề nghiệp. Ông am hiểu những nghề có tính đặc
thù như: tằn khạo, thương hồ, làm ruộng dạo, trị rắn cắn, bắt sấu, bẫy chim, ăn
ong, đánh bắt cá, len trâu, làm vườn, ruộng, rẫy,... Ba dân tộc đồng thời là
những chủ nhân của vùng đất Nam Bộ được đề cập thường xuyên là Kinh, Hoa,
Khmer. Ông tường tận nhiều phong tục, tập quán, lễ hội của họ: Tết cổ truyền,
lễ cúng trăng, đua ghe ngo, ngày bổ tróc, giỗ ông bà, cúng thần thánh,... Người
Khmer hiện lên với nhiều tình cảm ông dành cho họ. Bút danh Sơn Nam gắn với một
kỉ niệm đẹp từ thuở ấu nhi của ông về một bà mẹ Khmer tốt bụng.
Khó có thể kể
hết những tác phẩm của Sơn Nam viết về những sinh hoạt đời thường trên vùng đất
này, như các truyện Bốn cái ngu, Cái tổ
ong, Con Bảy đưa đò, Hát bội giữa rừng, Hương rừng, Mùa “len” trâu, Ngày mưa
đầu mùa, Ông Bang cà ròn, Ruộng Lò Bom, Tình nghĩa giáo khoa thư, Xóm Cù Là,...
(tập Hương rừng Cà Mau); Cấm bắt rùa, Con Bà Tám, Hai cõi U Minh, Kéo
trúm, Lũ trẻ chăn trâu, Ngày hội ba khía, Vọc nước giỡn trăng,…(tập Biển cỏ miền Tây). Để phản bác câu ca
dao: Trên đời bốn thứ nhàn du/Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu bằng
câu ca dao tương tự: Trên đời có bốn thứ ngu/ Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm
chầu - hai câu chỉ khác có mỗi từ nhàn
du/ngu - ông đã viết truyện Bốn cái ngu rất sinh động. Ở truyện
Chiếc ghe “ngo”, Sơn Nam đưa người
đọc đến với không khí lễ hội của đồng bào Khmer cùng những cuộc đua ghe ngo vô
cùng hào hứng, phấn khích. Con Bà Tám
là câu chuyện về một loại rùa khổng lồ có tám cái sọc trên lưng mà người xây nò
Xiêm bắt cá ngoài biển khơi rất sợ gặp phải, nghe đâu “nó ở miền Xanh-Ga-Bo, lâu lâu xiêu lạc qua xứ mình. Phải đuổi nó ra cho
khéo léo, kẻo bao nhiêu cây nọc cây rạo của nò mình ngã nghiêng hết”…
Là người sống ở
U Minh từ thuở nhỏ, văn của Sơn Nam như tuôn chảy ra từ một vốn sống ngồn ngộn,
tươi rói, nên có sức hấp dẫn đến kì lạ. Ông nói về sân chim, kể về chuyện ăn
ong, những kinh nghiệm bắt cá, bẫy chim, bắt rùa, cá sấu,… rất thú vị. Trong Tháng chạp chim về, ông viết về tâm sự
của ông Tư - một lão nông - lúc gặp lại con chim già sói thật cảm động. Nhà văn
như thấu cảm nỗi niềm tâm sự của hai “người bạn già” đã trải qua biết bao thăng
trầm, biến đổi của cuộc đời: “Nó nhìn ông Tư, râu tóc bạc phếu. Ông Tư nhìn
nó. Có lẽ ông nghĩ đến phận mình mà nảy sinh ra bao mối cảm hoài. Trong con tim
già, qua thời gian, giờ đây chắc chắn đã lắng xuống hết bao hung bạo của thời
xuân xanh của ông và của đất nước hoang vu” (tập Hương rừng Cà Mau).
Một điều dễ nhận
thấy đó là hệ thống nhân vật trong sáng tác của Sơn Nam đều bộc lộ suy nghĩ,
tâm lí, hành động hoàn toàn phù hợp với đặc trưng tính cách của họ. Nhiều người
đọc phía Nam hẳn như thấy mình hóa thân vào các nhân vật đã được ông xây dựng
thành công như: lão Ngượt, lão Nhị,
Lục cụ, ông Đạo Đất, ông Bang cà ròn, ông Từ Thông, bà Chúa Hòn, Cai tổng Biện,
giáo Lý, giáo Trích, thầy Chà, thầy Hai Rắn, cô Ngó, cô Út, cậu Ba, cậu Hai
Điền, Hai Cần, Tư Hạnh, Tư Hiếm, Năm Hến, Năm Tự, Bảy Út, Tám Theo, Mười Hấu,
Mười Hy, thằng Mến, con Lài,.... Đọc đoạn đối thoại giữa cô Huôi (bà
Chúa Hòn) với Tư Thiện trong tiểu thuyết Bà
Chúa Hòn, độc giả bắt gặp tính cách một người phụ nữ tuy ít học nhưng có
những nghĩ suy thấu tình đạt lí, thể hiện nét bình dân, chân chất nghĩa tình của
người dân Nam Bộ. Hay như ở truyện Đảng
“Cánh Buồm Đen”, Sáu Bộ tuy là chúa đảng nhưng đã kiên quyết giải nghệ khi
lỡ giết oan một người ở thuê cho chủ. Nắm trong tay cây roi và “đường quờn Lưu
Thủy” ít ai biết được truyền từ vị sư tổ, ông không nỡ tiếp tục mai danh ẩn tích,
vì “cảm thấy nhục nhã như thiếu một món
nợ gì đối với trời đất, núi non”, không xứng đáng với chức vị “chặt đầu Tây”
giành cho người dày công tu luyện. Vì thế, dù tuổi đã cao, Sáu Bộ vẫn sẵn sàng
truyền lại bí quyết nhiệm màu của đường quờn ấy cho lớp thanh niên yêu nước; thậm
chí hiến tặng cây roi để chặt ra làm cán mác, hay “làm gì thì làm, miễn dùng nó được thì thôi” cho cuộc đánh Tây. Hoặc
ông hương cả Binh trong truyện Con ngựa
đất, một nhân cách Nam Bộ rạng ngời tiêu biểu cho những con người nghiã
khí, sống chết vẫn không rời căn nhà, mảnh đất quê hương, chọn cái chết vinh
hơn sống nhục khi đối đầu với bọn xâm lược bạo tàn (tập Hương rừng Cà Mau).
Nét đặc sắc làm
nên “chất” Sơn Nam còn ở văn phong của nhà văn. Đó là sự kế thừa và phát huy
phong cách văn xuôi của những nhà văn Nam Bộ trước kia như Nguyễn Trọng Quản, Hồ
Biểu Chánh, Phú Đức, Phi Vân, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc... Đặc biệt ngôn
ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật mang đầy đủ đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ trên
các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách diễn đạt đã làm nên nét
độc đáo nổi trội trong sáng tác của Sơn Nam. Ở đây, ngôn ngữ dẫn chuyện của ông
có thể xem là tiêu biểu của lối “văn nói” Nam Bộ thường ngắn gọn, chứa nhiều từ
ngữ giao tiếp hằng ngày được thể hiện thành lời văn. Thí dụ, đoạn mở đầu truyện
ngắn Bắt sấu rừng U Minh Hạ: “Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng
nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích chốn sông sâu nước chảy, có sóng
gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tịnh, chật hẹp. Vùng U Minh Hạ sấu
thường đi ngược sông Ông Đốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm. Tại sao vậy? Tuy
là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chính. Rừng U Minh Hạ
thuộc về loài tràm thủy, cá sanh sôi nảy nở rất nhanh chóng; lên đó, tha hồ mà
ăn”. Hay đoạn văn nói đến những trăn trở của Tư Lập trong Hương rừng khi quyết định ra đi rồi lại
trở về khu rừng U Minh, mảnh đất lập nghiệp ban đầu của mình: “Hôm sau, chú
viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong
nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về
Long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại
sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại không
được. Chú lại trở về.” (tập Hương
rừng Cà Mau). Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng là ngôn ngữ thường ngày
của người dân thể hiện tính cách, tâm lí ứng xử của họ trong mọi hoàn cảnh khác
nhau. Rất nhiều từ Nam Bộ được ông dùng trong văn cảnh, nhiều khi khéo léo lồng
vào câu chuyện để diễn giải một cách cẩn thận. Điều này cho thấy sự quan tâm sâu
sắc của ông với vốn từ địa phương, mà sợ rằng với thời gian chúng có thể bị mai
một, thí dụ: bòng bong, bồn bồn, cà ràng, chạy tờ, choại, chòi mui, củi lục,
điệu nghệ, ghe cui, huê xà, hươi, lái rổi, len trâu, miệt thứ, ngủ nước, nò
cạn, nò Xiêm, nước rặc, phân đồng, sở Thượng, tam sên, tắt, tầm bo, thèo lèo,
thị quá, thỏn mỏn, xài giấy năm trăm, xiêm lo, xính xái, xổ nho,.... Ngoài
ra, ông còn sử dụng một khối lượng rất lớn từ ngữ Nam Bộ thông thường trong
cuộc sống như: ảnh, ăng kết, bà cậu, bảnh, bển, bịnh, bóp đầm, bông rua,
bùng binh, cà rá, cá kèo, chén, chẹt, Chà và, Chệt Sơn Đông, con mẻ, dân Năm
Căm, dân Sài Gòn, dòm, dợm, giấy bộ lư, giấy con công, hàng xáo, hát bóng, heo,
hóc Bà Tó, kinh, láng, lỏn chỏn, lội, mần, miệt dưới, ổng, qua, rạch, ròng, tằng
khạo,...
3. Cuộc đời và văn nghiệp của Sơn Nam
là sự nối kết của những chuyến đi bộ, thâm nhập thực tế, nghiên cứu điền dã
không biết mệt mỏi, như ông vẫn thường nói: “Ðọc sách bằng mắt chưa đã thì anh “đọc bằng chân”, đi cũng biết được
nhiều!” (3). Đó cũng là quan niệm sáng tác mà nhà văn đã minh
chứng bằng cả cuộc đời cầm bút. Một câu nói tâm huyết của ông được nhiều người
nhắc đến, ông xem đó là phương châm sống và viết của cuộc đời mình: “Viết văn để viết văn, để yêu nước, chứ không
nhằm mục đích nào khác!”.
Tròn
sáu mươi năm cầm bút, Sơn Nam đã tiếp nối xứng đáng truyền thống văn xuôi Nam
Bộ qua những sáng tác văn chương và công trình biên khảo có giá trị đặc sắc.
Giống như khi nói đến Toan Ánh của Bắc Ninh, Nguyễn Vinh Phúc của Hà Nội, Quách
Tấn của Bình Định, Nguyễn Văn Xuân của Quảng Nam, Võ Hồng của Phú Yên, Bình
Nguyên Lộc của Đồng Nai – Biên Hoà,... nói đến Sơn Nam là nói đến một nhà văn
lớn của miền Tây Nam Bộ đã dành toàn bộ tâm huyết, trí lực cả một đời để tìm
hiểu, khai phá vùng đất mà mình đã sống, góp phần khẳng định mạnh mẽ bản sắc
văn hoá của đất và người phương Nam trong nền văn hoá chung của dân tộc. Ông như một cây đước già gân guốc bám sâu chặt
gốc rễ vào lòng đất phù sa ngập mặn mà vẫn cố vươn ra với đời; là cây bút tài
hoa, mẫn tiệp, cả một đời gieo trồng chữ nghĩa trên đồng ruộng sình lầy phương
Nam nhưng vẫn lạc quan, yêu người,
yêu cuộc sống cho đến những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời.
Chú thích
(1) Dẫn theo Nguyễn Ngọc Chinh, “Sơn Nam - nhà văn miệt vườn”, http://www.gocnhinalan.com/bai-cua-khach/son-nam-nha-van-miet-vuon.html#comments
(2) Mùa len trâu, http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9a_len_tr%C3%A2u
(3)
Ngô Hà, “Sơn Nam - nhà văn, nhà khảo cứu văn hoá”, http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/?top=43&sub=164
Tài liệu tham khảo
1.
Sơn Nam (1989), Bà Chúa Hòn, NXB Long
An.
2.
Sơn Nam (2003), Biển cỏ miền Tây – Hình
bóng cũ, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.
Sơn Nam (2004), Hương rừng Cà Mau,
NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.
Sơn Nam (2009), 4 truyện vừa (Ngôi nhà
mặt tiền, Âm dương cách trở, Chuyện tình một người thường dân, Truyện ngắn của
truyện ngắn), NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.
Phạm Thanh Hùng (2012), Truyện ngắn trong
dòng văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1965, NXB Giáo dục Việt Nam, TP
Cần Thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét